Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972 của quân dân Việt Nam mang nhiều ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử của nước nhà. Bạn đã biết về Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không chưa? Cùng tìm hiểu qua bài viết này của BachkhoaWiki nhé.
Chiến thắng chiến dịch Điện Biên Phủ trên không đóng vai trò quyết định trực tiếp buộc chính Phủ Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris (27/1/1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Theo dõi hết bài viết của BachkhoaWiki để hiểu rõ hơn về chiến dịch này nhé.
1 Tóm tắt chiến dịch Điện Biên Phủ trên không 1972
1.1 Nguyên nhân của chiến dịch Điện Biên Phủ trên không
Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không nằm trong đợt chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2 của Mỹ với mục đích:
- Phá tiềm lực kinh tế và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
- Ngăn chặn sự chi viện của các nước khác cho nước ta.
- Làm lung lay ý chí của ta nhằm cứu nguy cho chiến lược ”Việt Nam hóa” , giảm sức tiến công ở miền Nam và tạo thế mạnh trên bàn đàm phán ở Paris.
- Do gặp phải sự phản công quyết liệt của quân dân miền Bắc, Nison đã quyết định mở trận ‘Điện Biên Phủ trên không với ý đồ đưa miền Bắc VN về thời kỳ đồ đá, để giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ra phải kí hiệp định có lợi cho chúng.
1.2 Kế hoạch của Mỹ
Sau thất bại của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong chiến dịch Lam Sơn 719, quân đội Nhân dân Việt Nam tại miền Nam liên tục mở các cuộc tấn công vào các căn cứ và vị trí chiến lược của Việt Nam Cộng Hòa qua chiến dịch Xuân Hè 1972, làm thất bại kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ. Nhằm giữ thể diện của một siêu cường quân sự và để rút quân trong danh dự, Hoa Kỳ đã tiến hành chiến dịch đánh bom lần cuối này với ý định “đưa miền Bắc về thời kỳ đồ đá”, giảm bớt sự hỗ trợ quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho chiến trường miền Nam.
Tại Paris cuối tháng 11 năm 1972, cuộc đàm phán Việt Nam – Hoa Kỳ một lần nữa lâm vào bế tắc. Theo như yêu cầu của Mỹ là khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam thì Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng phải rút khỏi miền Nam Việt Nam. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chấp nhận, vì đề nghị như vậy đặt họ ngang hàng với kẻ xâm lược là Mỹ, đồng thời sẽ khiến quân Giải phóng gặp rất nhiều khó khăn sau này.
Ngày 23/11/1972, khi gặp Lê Đức Thọ, Henry Kissinger đã đọc bức điện của Nixon ngầm đe dọa ngừng đàm phán, ném bom trở lại. Tuy nhiên ông Lê Đức Thọ đã khẳng khái đáp lại: “Chúng tôi đã đánh nhau với các ông mười mấy năm và cũng đã đàm phán 5 năm rồi. Nay các ông có sẵn sàng mới đi đến giải quyết; không thể dùng đe dọa với chúng tôi được đâu”
Mục tiêu mà Hoa Kỳ đặt ra trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không là duy trì nỗ lực tối đa để phá hủy tất cả các tổ hợp mục tiêu chính ở khu vực Hà Nội và Hải Phòng, trong đó phá hủy đến mức tối đa những mục tiêu quân sự chọn lọc tại vùng lân cận của Hà Nội/Hải Phòng.
Yêu cầu của chúng vẫn là buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải chấp nhận điều khoản của Mỹ, đồng thời tỏ rõ cho Nguyễn Văn Thiệu thấy rằng Hoa Kỳ đã cố làm hết trách nhiệm bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa, thay vì rút lui mà không chiến đấu. Cũng trong ngày 14 tháng 12, Nixon gửi một tối hậu thư cho Hà Nội: trong 72 giờ đồng hồ để quay lại ký theo phương án Hoa Kỳ đề nghị, nếu không sẽ ném bom lại Bắc Việt Nam.
Đây thực chất chỉ là cách để thể hiện trách nhiệm nghĩa vụ cuối cùng đối với đồng minh Việt Nam Cộng hoà: khi dự thảo hiệp định đã được ký tắt với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính Phủ Việt Nam Cộng hoà đã phản đối kịch liệt và không chấp nhận, Hoa Kỳ quyết định dùng nấc thang quân sự mạnh tay nhất này để chứng tỏ họ đã cố gắng hết mức cho quyền lợi của đồng minh.
Ngày 15 tháng 12, Lê Đức Thọ và Kissinger chia tay nhau tại sân bay Le Bourget (Paris). Ngày 16 tháng 12, Kissinger họp báo tại Washington DC đổ lỗi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kéo dài đàm phán. Tối 18 tháng 12, khi Lê Đức Thọ vừa về đến nhà (sau khi ghé qua Moskva và Bắc Kinh) thì những trái bom đầu tiên từ B52 trong Chiến dịch Linebacker II rơi xuống Hà Nội.
1.3 Lực lượng 2 bên
Không lực Hoa Kỳ
Theo Karl J. Eschmann, Mỹ đã huy động:
- Gần 50% B52 của toàn nước Mỹ (197/400 chiếc). Thực tế xuất kích 741 lần, 12 phi vụ bị hủy nên còn 729 lần ném bom
- Gần 1/3 số máy bay chiến thuật của toàn nước Mỹ (1.077/3.041 chiếc). Thực tế xuất kích 3.920 lần.
- 1/3 số tàu sân bay (6/17 chiếc), cùng nhiều tàu chỉ huy – dẫn đường, tàu khu trục, tàu tuần dương, tàu radar, tàu bảo vệ, tàu cấp cứu,…
- Tập đoàn không quân 7 và 8: Bao gồm các liên đội không quân chiến lược B52 số 43 và 72 đóng tại căn cứ không quân Andersen trên đảo Guam gồm 143 chiếc B52G, B52D và liên đội không quân chiến lược số 307 gồm 54 máy bay B52D đóng tại căn cứ Utapao (Thái Lan), 6 liên đội không quân chiến thuật gồm 455 máy bay đóng căn cứ tại các căn cứ không quân Ubon Korat và Takhli trên đất Thái Lan và 2 liên đội 124 máy bay đóng tại miền Nam Việt Nam (Đà Nẵng).
- Không đoàn đặc nhiệm 77 (Task force 77) là các máy bay trên các tàu sân bay của hải quân gồm 6 liên đội với 420 máy bay
Quân đội nhân dân Việt Nam
Việt Nam đã tập trung phần lớn lực lượng phòng không chủ lực cho chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, bao gồm:
- 3 Sư đoàn Phòng không: 361, 363, 375 với 23 tiểu đoàn tên lửa SA-2 (60% toàn lực lượng)
- 13 trung đoàn pháo cao xạ (50% toàn lực lượng)
- 4 trung đoàn không quân (100% toàn lực lượng)
- 4 trung đoàn radar (80% toàn lực lượng)
- 3 trung đoàn, 2 tiểu đoàn phòng không của các quân khu Việt Bắc, Hữu Ngạn, Tả Ngạn sông Hồng.
- 346 đội phòng không của dân quân, tự vệ với 1.428 khẩu pháo hoặc súng máy phòng không.
Tổng cộng đã có 54.000 chiến sỹ và dân quân tham gia các hoạt động chiến đấu hoặc vận tải.
1.4 Chiến thuật của Mỹ vào Hà Nội và miền Bắc Việt Nam
Cuộc tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc tháng 12/1972 là một âm mưu hiểm độc.
Âm mưu này đã được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tính toán kỹ lưỡng, bất chấp sự phản đối, lên án mạnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước Mỹ.
Để thực hiện âm mưu này, Mỹ đã huy động số lượng lớn máy bay, tàu chiến và các loại vũ khí vào chiến dịch. Đây là cuộc huy động lực lượng tập kích đường không lớn nhất của Mỹ kể từ sau Thế chiến II đến năm 1972. Trong đó:
- Máy bay chiến lược B52: 193 chiếc trong tổng số 400 chiếc hiện có của quân đội Mỹ.
- Máy bay không quân chiến thuật: 1.077chiếc trong 3.043 chiếc (có 1 biên đội máy bay F.111 khoảng 50 chiếc).
- Tàu sân bay: 6 chiếc/24 chiếc; hơn 50 máy bay tiếp dầu trên không và một số loại máy bay phục vụ khác như: máy bay gây nhiễu từ xa, máy bay trinh sát chiến lược, chiến thuật, máy bay chỉ huy, liên lạc dẫn đường, cấp cứu; cùng 60 tàu chiến các loại của Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương.
Lầu Năm Góc đã cấp tốc thành lập Bộ chỉ huy lâm thời, đóng ở Utapao (Thái Lan) do Tướng Joshnvot làm Tư lệnh. Bộ chỉ huy này đặt dưới quyền chỉ huy của không quân chiến lược và Bộ Quốc phòng Mỹ.
Cuộc tập kích đường không chiến lược của Mỹ vào miền Bắc nước ta cuối tháng 12/1972 là một cuộc ném bom hủy diệt man rợ. Trong 12 ngày và đêm, Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B52 và 3.920 lần máy bay chiến thuật, ném bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã trên miền Bắc nước ta hơn 100 ngàn tấn bom đạn.
1.5 Kế hoạch tác chiến của quân ta là gì?
Sau trận đánh máy bay B52 không thành công tại Hải Phòng (16/4/1972), Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã có những đánh giá tình hình vô cùng chính xác, như:
- Thứ nhất, khả năng Mỹ sử dụng B52 đánh lớn vào Hà Nội sẽ trở thành hiện thực trong một thời gian không xa. Do đó, việc rà soát lại các phương án đánh B52 bảo vệ Hà Nội và những mục tiêu quan trọng khác càng trở nên cấp thiết.
- Thứ hai, muốn bắn hạ được B52, ta không thể dựa vào những kinh nghiệm cũ, mà cần phải đi sâu nghiên cứu địch trên tất cả các mặt, nhất là về chiến thuật, kỹ thuật để tìm ra cách đánh mới phù hợp. Đặc biệt, việc tìm ra dải nhiễu B52 để xác định đúng “mục tiêu B52” sẽ trở thành yếu tố then chốt cho kết quả thắng – thua.
- Thứ ba, việc đến thời điểm này, chưa có đơn vị tên lửa nào của ta bắn rơi tại chỗ máy bay B52, cũng như thắng lợi tạm thời của Mỹ trong trận đánh Hải Phòng vừa qua sẽ khiến địch càng dễ chủ quan; quân dân ta có thêm điều kiện để giành chiến thắng.
Những đánh giá xác thực này đã đặt nền tảng cho một quá trình chuẩn bị khoa học của bộ đội phòng không Quân đội nhân dân Việt Nam.
Dựa trên kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn chiến đấu, những hiểu biết ngày càng nhiều về khí tài cùng thủ đoạn hoạt động của địch, tài liệu “Cách đánh B52” hoàn chỉnh (11/1972), giúp các đơn vị phòng không, không quân thống nhất về tư tưởng và cách đánh, từ đó nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.
Bên cạnh đó, ta khẩn trương xây dựng một số sân bay dã chiến bí mật ở vòng ngoài; bố trí thêm nhiều trận địa nghi binh, trận địa dã chiến cho bộ đội tên lửa, bộ đội cao xạ cơ động; bố trí thêm một số trạm ra-đa nhằm “tăng độ dài cánh sóng”…
Tại các địa phương, lực lượng dân quân tự vệ được trang bị thêm nhiều loại súng máy, pháo cao xạ và phương tiện cấp cứu. Hệ thống công sự chiến đấu, hầm hào ẩn nấp được sửa chữa hoặc xây dựng thêm.
Toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch phòng không Hà Nội – Hải Phòng bao gồm: 6 trung đoàn tên lửa phòng không, 4 trung đoàn không quân tiêm kích, 16 trung đoàn và 22 tiểu đoàn pháo phòng không, 4 trung đoàn radar, 346 đơn vị pháo và súng máy phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân.
2 Diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ trên không
2.1 Ngày 18/12/1972
Ngày 18/12/1972, nhiều tốp máy bay B52 liên tiếp dội bom xuống các khu vực: sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm… Cuộc chiến đấu ác liệt của lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ Hà Nội đã mở đầu chiến dịch 12 ngày đêm “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” lịch sử.
20 giờ 18 phút, Tiểu đoàn 59 (Trung đoàn Tên lửa phòng không 261) phóng 2 quả tên lửa hạ ngay 1 máy bay B52 (rơi xuống cánh đồng thuộc Phủ Lỗ và Đông Anh. Đây là chiếc máy bay B52 đầu tiên bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội.
Trong đêm 18/12, Mỹ huy động 90 lượt máy bay B52 ném 3 đợt bom xuống Thủ đô Hà Nội. Xen kẽ các đợt đánh phá của B52 có 8 lượt máy bay F111 và 127 lượt máy bay cường kích, bắn phá các khu vực nội, ngoại thành đã ném khoảng 6.600 quả bom xuống 135 địa điểm ở Thủ đô, làm 85 khu vực dân cư bị trúng bom, khoảng 300 người thiệt mạng…
Ngày và đêm 19/12/1972, 4 giờ 30 phút sáng, địch ném bom các khu vực: Đài Tiếng nói Việt Nam (Mễ Trì), xã Nhân Chính, Nhà máy cao su Sao Vàng,… Các trận địa tên lửa, pháo phòng không với các đơn vị dân quân tự vệ Thủ đô tiêu diệt 1 máy bay F4. Cùng thời gian, Tiểu đoàn 77 (Trung đoàn tên lửa 257) bắn rơi tại chỗ 1 máy bay B52. Bộ Chính trị biểu dương các lực lượng phòng không.
Ngày 20/12/1972, từ 19 giờ, địch huy động 78 lượt B52 và hơn 100 lượt máy bay cường kích các loại đánh phá vào Hà Nội. Tiểu đoàn 93 (Trung đoàn tên lửa 261) bắn rơi tại chỗ 1 máy bay B52 ở khu vực ga Yên Viên; Tiểu đoàn 77 (Trung đoàn tên lửa 257) bắn rơi thêm 1 chiếc B52 ở ngoại thành. Sau đó, 3 tiểu đoàn tên lửa (78,79, 94) bắn rơi tại chỗ 1 chiếc B52 nữa.
Các đại đội pháo 100 ly của dân quân tự vệ Thủ đô đã hiệp đồng chặt chẽ với bộ đội tên lửa cao xạ bảo vệ vững chắc cho các trận địa tên lửa và các mục tiêu quan trọng khu vực nội, ngoại thành. Trong đêm 20 rạng ngày 21/12, bộ đội tên lửa phòng không bảo vệ Hà Nội đã bắn rơi 7 chiếc B52. Tiêu biểu là trận của các tiểu đoàn 57,77,79, chỉ trong 9 phút với 6 tên lửa đã bắn rơi 4 chiếc B52.
2.2 Ngày 21/12/1972
Ngày 21/12/1972, ban ngày địch huy động 180 lượt máy bay chiến thuật đánh phá các mục tiêu trọng yếu như: ga Hàng Cỏ, Sở công an, Nhà máy điện yên Phụ, Bộ Giao thông,… cầu Phủ Lý và 6 đợt đánh vào khu vực thị xã Thanh Hóa. Rạng sáng 22/12, địch huy động 24 lượt máy bay B52 và 36 lượt máy bay chiến thuật hộ tống vào đánh sân bay, Bệnh viện Bạch Mai, khu vực Giáp Bát, Văn Điển…
Đêm 21 rạng sáng 22/12, Tiểu đoàn 57 bộ đội phòng không Hà Nội đã bắn rơi tại chỗ 1 máy bay B52 ở chợ Bến (huyện Mỹ Đức). Ban ngày, địch huy động 56 lượt máy bay chiến thuật đánh phá ga Kép, thị xã Bắc Giang, thành phố Việt Trì, thị trấn Vĩnh Yên,… Ban đêm, địch sử dụng 24 lượt B52 và 30 máy bay chiến thuật, 9 chiếc F111 đánh phá Hải Phòng, khu An Dương, Đông Anh (Hà Nội), Hòa Lạc, Đáp Cầu,… Quân và dân ta bắn rơi 5 máy bay, trong đó bắn rơi tại chỗ 3 chiếc B52, 1 chiếc F4, 1 chiếc F111.
Ngày 23/12/1972, ban ngày địch huy động 54 lượt máy bay chiến thuật đánh phá các khu vực ngoại thành Hà Nội, Mai Dịch, Trạm Trôi, Hoài Đức,…; ban đêm, chúng sử dụng 33 lượt B52 đánh Đồng Mỏ (Lạng Sơn), khu vực Bắc Giang và cho nhiều máy bay F4, F105, F111 đánh Yên Viên, Giáp Bát, Đa Phúc, sân bay Nội Bài, Yên Bái, Uông Bí, Phà Rừng, Sở Dầu và sân bay Kiến An (Hải Phòng),… Quân ta bắn rơi 4 máy bay trong đó có 2 chiếc B52, 1 chiếc F1, 1 chiếc A7.
Ngày 24/12/1972, ban ngày, địch huy động 44 lượt máy bay chiến thuật đánh phá khu vực Thái Nguyên, Hà Bắc; ban đêm dùng 33 lượt B52 đánh phá ác liệt ga Kép, Bắc Giang, sân bay Yên Bái, Vĩnh Tuy (Hà Nội),… Quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi 5 máy bay, trong đó có 1 chiếc B52, 2 chiếc F4, 2 chiếc A7.
2.3 Ngày 25/12/1972
Từ 0 giờ ngày 25/12/1972, không quân địch ngừng ném bom miền Bắc nhân dịp lễ Noel. Sáng 25, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân triệu tập Hội nghị quân chính tổ chức rút kinh nghiệm chiến đấu giai đoạn 1 và phổ biến tình hình nhiệm vụ giai đoạn tới.
Qua 7 ngày chiến đấu ngoan cường dũng cảm, bộ đội tên lửa, pháo phòng không hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ cùng bộ đội radar, không quân và các lực lượng phòng không ba thứ quân đã bắn rơi 53 máy bay địch, có 18 B52, 5 F111.
Trong đó Quân chủng Phòng không – Không quân bắn rơi 31 chiếc (tên lửa bắn rơi 23 chiếc có 17 chiếc B – 52, không quân bắn rơi 1 chiếc F4, Pháo phòng không bắn rơi 7 chiếc). Lực lượng phòng không đại phương, dân quân tự vệ bắn rơi 22 chiếc, trong đó có 4 chiếc F111 và pháo 100 ly được công nhận bắn rơi 1 chiếc B52.
Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương nhận định: Địch sẽ đánh phá trở lại Hà Nội ác liệt hơn, quân và dân Thủ đô Hà Nội cần gấp rút chuẩn bị tốt lực lượng đánh địch trong những ngày tới.
Đến 15 giờ 25 phút ngày 25/12, Bộ Tổng Tham mưu lệnh cho Quân chủng Phòng không – Không quân từ 19 giờ ngày 25/12/1972, tất cả bộ đội, vũ khí, khí tài tên lửa phải sẵn sàng chiến đấu 100%. Bộ đội, radar phải phân biệt chính xác mục tiêu thật, giả và thông báo kịp thời B52 địch, chú ý máy bay bay thấp.
Các loại pháo, súng máy phòng không tổ chức bố trí đón lõng tập trung đánh tiêu diệt F111 và bảo vệ tên lửa; pháo 100 milimet tham gia đánh B52.
2.4 Ngày 26/12/1972
13 giờ ngày 26/12, địch sử dụng 56 lần chiếc máy bay cường kích các loại vào ném bom dữ dội các khu vực trận địa tên lửa và trạm biến thế Đông Anh.
Ban đêm, từ 22 giờ 05 phút ngày 26/12, địch sử dụng 105 lần chiếc máy bay B52 và 110 lần chiếc máy bay chiến thuật hộ tống đánh ồ ạt, liên tục, đồng thời từ nhiều hướng và đánh tập trung một đợt vào nhiều mục tiêu trên cả 3 khu vực Hà Nội, Hải Phòng và Thái Nguyên.
Theo số liệu, Mỹ đã tập trung 66 lần chiếc B52 vào đánh phá Hà Nội, 21 lần chiếc B52 đánh Thái Nguyên và 18 lần chiếc B52 đánh Hải Phòng. Đây là trận đánh lớn nhất và là trận then chốt trong cuộc tập kích đường không chiến lược của địch.
22 giờ 24 phút, Đại đội 174 pháo 100mm của Trung đoàn PPK 252 tại Quân khu Việt Bắc đã bắn rơi 1 chiếc B52.
22 giờ 40 phút, máy bay B52 ồ ạt đến ném bom rải thảm dữ dội vào tất cả các mục tiêu nội, ngoại thành Hà Nội. Khu phố Khâm Thiên và Khu Hai Bà Trưng bị tàn phá nặng nề.
Trận chiến đấu đêm 26/12 diễn ra hơn một giờ, lực lượng phòng không 3 thứ quân của Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên đã đánh một trận tiêu diệt lớn, bắn rơi 8 máy bay B52, riêng Hà Nội Bắn rơi 5 chiếc, có 4 chiếc rơi tại chỗ và 10 máy bay chiến thuật khác.
Đây là trận đánh then chốt quyết định bắn rơi nhiều máy bay chiến lược B52 nhất trong 9 ngày qua. Trận đánh đã làm suy sụp tinh thần và ý chí của giới cầm quyền nhà trắng và Lầu Năm Góc, nhất là giặc lái Mỹ.
2.5 Ngày 27/12/1972
Sáng ngày 27/12, địch điên cuồng cho 100 lần chiếc máy bay chiến thuật chia làm 3 đợt đánh phá dữ dội vào các khu vực nội, ngoại thành Hà Nội như nhà máy dệt 8-3, ga và kho Văn Điển, cầu Đuống, Gia Lâm, đài phát thanh Mễ Trì, các trận địa tên lửa, radar…
Pháo phòng không các loại của quân dân Thủ đô đã phát huy hoả lực, đánh trả mãnh liệt trên tất cả các hướng. Đại đội 61 tiểu đoàn 20 bắn rơi 1 máy bay F4. Cùng ngày, không quân ta cất cánh hai lần bắn rơi 2 chiếc máy bay F4 của Mỹ.
Từ 19 giờ đến 22 giờ ngày 27/12, địch tăng cường huy động 36 lần chiếc máy bay B52, có 66 lần chiếc máy bay chiến thuật yểm hộ, tập trung đánh phá các khu vực: Đông Anh, Yên Viên, Bạch Mai, Khuyến Lương, Đa Phúc, Dục Nội, Cổ Loa; Xen kẽ giữa các đợt hoạt động của B52 địch dùng 17 lần chiếc F111 tiếp tục thay nhau đánh phá, gây nhiều tội ác đối với nhân dân ta.
22 giờ 20 phút ngày 27/12, Bộ Tư lệnh Không quân cho đồng chí Phạm Tuân lái máy bay MIG- 21 cất cánh bất ngờ từ sân bay Yên Bái được Sở chỉ huy và radar dẫn đường trực tiếp bảo đảm, vượt qua hàng rào bảo vệ của máy bay F4 tiến về hướng đội hình B52.
Đến bầu trời khu vực Mộc Châu- Sơn La, Phạm Tuân tiếp cận được mục tiêu, công kích bằng 2 quả tên lửa. Một chùm lửa bốc cháy trùm lên chiếc B52 thứ 2. Đây là chiếc B52 đầu tiên bị bộ đội không quân ta bắn rơi trong chiến dịch 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”.
Ngay trong đêm 27/12, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng điện khen bộ đội không quân đã lập công xuất sắc, bắn rơi máy bay chiến lược B52 của Mỹ.
23 giờ ngày 27/12, bộ đội tên lửa bảo vệ Hà Nội đánh trả quyết liệt tốp B52. Bằng 32 quả đạn, các đơn vị tên lửa phòng không của ta đã bắn tan xác 4 máy bay B52 trong đó có 2 chiếc máy bay rơi tại chỗ.
23 giờ 02 phút ngày 27/12, hai tiểu đoàn tên lửa 71 và 72 bắn tiêu diệt tốp máy bay B52 từ hướng Tây lao vào đánh phá Hà Nội. Bằng 2 quả đạn theo phương pháp bám chính xác vào giữa nền dải nhiễu đậm, chiếc B52 chưa kịp cắt bom đã bị trúng đạn bốc cháy rơi xuống làng Ngọc Hà, đường Hoàng Hoa Thám (Hà Nội). Đây là chiếc B52 duy nhất chưa kịp cắt bom đã bị bắn rơi. Trong đó tiểu đoàn 59 và tiểu đoàn 77 cũng bắn rơi 2 chiếc máy bay B52 lúc 23 giờ 04 phút và 24 giờ 06 phút ngày 27/12.
Trong ngày và đêm quân dân miền Bắc đã bắn rơi 14 máy bay trong đó có 5 chiếc B52 với 2 chiếc bắn rơi tại chỗ, 5 F4, 2 A7, 1 A6 và 1 máy bay lên thẳng HH53 đến cứu giặc lái.
2.6 Ngày 28/12/1972
Từ 10 giờ đến 17 giờ ngày 28 tháng 12, địch huy động 131 lần chiếc máy bay chiến thuật các loại đánh vào trận địa của bộ đội Phòng không – Không quân ở khu vực nội, ngoại thành. Quân và dân Thủ đô đánh trả quyết liệt. Không quân ta cất cánh đánh một trận xuất sắc bắn rơi 1 máy bay RA- 5C.
Cùng ngày Bộ Tổng Tham mưu ra thông báo yêu cầu Tổng thống Mỹ Nikson phải chấp thuận nối lại các phiên họp Hội nghị Pari. Chính Phủ ta chấp nhận.
Tối 28/12, Trung đoàn 274 được lệnh cơ động tăng cường ra Thủ đô Hà Nội. Những quả đạn tên lửa từ Quân khu 4 được chuyển ra chi viện nhanh chóng cho mặt trận Hà Nội.
Từ 20 giờ đến 22 giờ, địch sử dụng khoảng 60 lần chiếc máy bay chiến lược B52 đánh phá khu vực Đông Anh, đa Phúc, Cầu Đuống, Yên Viên, Gia Lâm.
21 giờ 41 phút, phi công Vũ Xuân Thiều được lệnh của Sở chỉ huy Không quân, lái chiếc máy bay MIG 21 cất cánh từ sân bay Cẩm Thuỷ, do Sở chỉ huy sân bay Thọ Xuân và radar dẫn đường vòng ra phía sau đội hình B52 đuổi địch đến vùng trời Sơn La.
Phát hiện được B52 bám sát ở cự ly gần, Vũ Xuân Thiều xin công kích, quyết tiêu diệt địch. Sau khi bắn cháy máy bay địch, Vũ Xuân Thiều cũng anh dũng hy sinh.
Trận đánh ngày và đêm 28/12, quân và dân ta bắn rơi 3 máy bay Mỹ. Trong đó có 2 B52, 1 RA- 5C.
2.7 Ngày 29/12/1972
Ban ngày, địch sử dụng 36 chiếc máy bay của không quân chiến thuật Mỹ đánh phá nhà máy điện Cao Ngạn, Đồng Hỷ và khu vực cây số 4 Bắc Thái Nguyên.
23 giờ 16 phút, địch huy động 60 lần chiếc B52 đánh vào 3 khu vực: 30 B52 đánh khu gang thép Thái Nguyên và khu Trại Cau, 18 B52 đánh khu vực Đồng Mỏ (Lạng Sơn), 12 B52 đánh Kim Anh (Vĩnh Phú).
Ngoài ra 70 lần chiếc máy bay chiến thuật của không quân và hải quân Mỹ đánh xen kẽ các sân bay Thọ Xuân, Yên Bái, Hoà Lạc, Kép và khu vực Kim Anh (VĨnh Phú), Đông Anh (Hà Nội), ngoại vi Thành phố Hải Phòng và Quảng Ninh.
Ta bắn rơi 2 máy bay, trong đó Tiểu đoàn tên lửa 79 bảo vệ Hà Nội chiến đấu anh dũng bắn rơi 1 máy bay B52, 1 máy bay F4. đây là trận đánh kết thúc chiến dịch 12 ngày đêm chiến dịch Điện Biên Phủ trên không bảo vệ Thủ đô Hà Nội cuối tháng chạp năm 1972.
7 giờ sáng ngày 30/12, Níchxơn buộc phải ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và họp lại Hội nghị Pari về Việt Nam.
Bạn đã nắm rõ sơ bộ về chiến dịch Điện Biên Phủ trên không rồi đúng không nào. Vậy bạn đã biết tại sao gọi chiến thắng 12 ngày đêm cuối năm 1972 là chiến thắng điện biên phủ trên không?
Chiến thắng 12 ngày đêm cuối năm 1972 được gọi là chiến thắng Điện Biên Phủ trên không bởi vì chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, quân dân ta đã phá tan “Pháo đài khổng lồ” của Pháp, góp phần quyết định trong việc kết thúc chiến tranh, buộc Pháp phải kí Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Và chiến thắng năm 1972, quân và dân Hà Nội đã tiêu diệt toàn bộ “Pháo đài B52” của Mỹ, góp phần to lớn trong việc thay đổi cục diện chiến trường ở miền Nam, buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pa-ri.
3 Kết quả của chiến dịch Điện Biên Phủ trên không
Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng kéo dài 12 ngày, đêm đã bị thất bại hoàn toàn.
Trong 12 ngày đêm chiến dịch Điện Biên Phủ trên không quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F 111 và 42 máy bay chiến thuật khác.
Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt trong suốt 8 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Đây là cuộc đọ sức quyết liệt nhất từ trước tới nay. Nghệ thuật tác chiến phòng không hiệp đồng chiến đấu, quân binh chủng của bộ đội ta đã chứng tỏ sức mạnh tổng hợp của lực lượng phòng không ba thứ quân mà nòng cốt là bộ đội Phòng không – Không quân.
4 Ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ trên không
Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không 1972 thể hiện đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam, của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đó là chiến thắng của sức mạnh chính trị, tinh thần của toàn dân tộc, với ý chí quyết đánh, dám đánh và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Đó cũng là chiến thắng của đường lối chiến tranh nhân dân và nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng trong thế trận Phòng không nhân dân.
Tư lệnh quân chủng phòng không không quân, Trung tướng Lê Huy Vịnh khẳng định: “Với ý chí sắt đá, quân và dân Việt Nam mà nòng cốt là lực lượng phòng không không quân, đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng đường không quy mô lớn chưa từng có của đế quốc Mỹ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không đóng vai trò quyết định trực tiếp buộc chính Phủ Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris (27/1/1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân viễn chinh, quân đồng minh về nước, mở ra bước ngoặt mới cho toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Bên cạnh đó, nó còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt nghệ thuật chiến dịch phòng không như phán đoán chính xác âm mưu địch, thủ đoạn tập kích của không quân địch để sớm có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, mở màn chiến dịch chủ động; quán triệt yêu cầu chiến lược, nêu cao quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ.
Những bài học kinh nghiệm quý báu này rất cần được chắt lọc, vận dụng phù hợp, sáng tạo trong công tác huấn luyện, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
5 Quan điểm của Quốc tế về chiến dịch Điện Biên Phủ trên không
Chiến dịch ném bom bị phản đối rất mạnh mẽ trên khắp thế giới, công dân ở các nước Xã hội Chủ nghĩa gây áp lực để yêu cầu chính Phủ của mình chính thức lên án các cuộc ném bom. Trung Quốc và Liên Xô đều đặn thể hiện sự bất bình trước việc tái ném bom, nhưng họ đã không có một động thái nào khác.
Thực tế, các chỉ trích mạnh mẽ hơn lại là ở các nước phương Tây. Tại Paris, báo Le Monde so sánh với cuộc ném bom hủy diệt Guernica do Phát-xít Đức thực hiện trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Tờ báo lớn nhất của Anh là Daily Mirror đã bình luận: “Việc Mỹ quay lại ném bom Bắc Việt Nam đã làm cho cả thế giới lùi lại vì ghê sợ”.
Các chính Phủ Anh, Ý và Thụy Điển đã lên tiếng. Một trong những phản ứng dữ dội nhất là của Thủ tướng Thụy Điển, ông đã lên án cuộc ném bom là một tội ác chống lại loài người trên quy mô đạo đức của sự tàn bạo của phát xít tại trại tập trung Treblinka. Palme còn đích thân đến một cửa hàng tổng hợp để thu thập chữ ký cho một kiến nghị toàn quốc đòi chấm dứt ném bom – để gửi tới Nixon.
Tại Mỹ, Nixon bị chỉ trích là điên rồ. Nhiều người trong số những người đã từng ủng hộ cuộc ném bom hồi tháng 5 nay chất vấn cả sự cần thiết và tính tàn bạo bất thường của Linebacker II.
Quyển Võ Nguyên Giáp – Tổng tập hồi ký dẫn bài báo của hãng AP có đăng lời của Nguyễn Văn Thiệu vào tháng 8/1972 kêu gọi Mỹ “hãy ném bom tan nát miền Bắc Việt Nam”.
Quyển hồi ký của Võ Nguyên Giáp cũng dẫn bài trên báo Nhân đạo (L’humanité) của Pháp bình luận rằng: “Ngay cả trong Chiến tranh thế giới thứ hai, những viên tướng Pháp phản bội cũng không dám đề nghị đồng minh của chúng (Đức Quốc xã) tàn phá Paris (để ngăn quân Anh-Mỹ). Thế mà nay Thiệu lại muốn Mỹ ném bom tàn phá đất nước mình. Thiệu thật đáng xấu hổ hơn cả sự xấu hổ”
6 So sánh chiến dịch Điện Biên Phủ và Điện Biên Phủ trên không 1972
6.1 Giống nhau
- Đều là những trận đánh lớn nhất mà Pháp và Mĩ hy vọng sẽ đánh bại ta, để kết thúc các cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp và Mỹ…
- Đều là những thắng lợi to lớn nhất của ta, là những đòn quyết định buộc Pháp và Mĩ phải ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh (Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương năm 1954, Hiệp định Pari về Việt Nam năm 1973)…
- Cả hai trận đấu đều diễn ra ở miền Bắc.
- Kết quả cả 2 trận Pháp và Mỹ đều thất bại.
6.2 Khác nhau
6.2.1 Địa điểm diễn ra trận đánh
- Điện Biên Phủ 1954 diễn ra ở Điện Biên Phủ (Lai Châu), ta chủ động mở chiến dịch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp…
- “Điện Biên Phủ trên không” 1972 diễn ra trên bầu trời miền Bắc, là trận đánh ta đánh trả cuộc tập kích chiến lược bằng đường không của Mỹ…
6.2.2 Phương thức đánh của địch
- Điện Biên Phủ 1954: Pháp co lại thành 49 cứ điểm với 3 phân khu có trận địa pháo, sân bay ở lòng chảo Điện Biên.
- “Điện Biên Phủ trên không” 1972: Mỹ huy động các loại máy bay, tàu chiến để đánh ta trên 1 quy mô lớn.
6.2.3 Phương thức đánh của ta
- Điện Biên Phủ 1954: Ta dùng kế sách ” vây – tấn – diệt – triệt” để hạ các cứ điểm trong tập đoàn Điện Biên Phủ.
- “Điện Biên Phủ trên không” 1972: Ta dùng trận địa tên lửa, trận địa pháo, trận địa giả,…. để đánh trả và đánh lạc hướng địch.
6.2.4 Kết quả
- Điện Biên Phủ năm 1954 là thắng lợi có tính quyết định trên mặt trận quân sự của ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ 1954…
- “Điện Biên Phủ trên không” 1972 là thắng lợi có tính quyết định trên mặt trận quân sự trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng bắn phá miền Bắc và cùng với chiến thắng tiến công chiến lược năm 1972 đã buộc Mỹ ký Hiệp định Pari năm 1973 rút quân về nước…
7 Tài liệu hình ảnh, video hoặc phim về chiến dịch Điện Biên Phủ trên không
Một số hình ảnh, video về chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972: