I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Như chúng ta đã biết, nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống. Nó thức tỉnh và phát triển tâm hồn con người. Văn học là một loại hình nghệ thuật mang tính sáng tạo gần gũi gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người từ thủa ấu thơ, nó phản ánh cuộc sống và thế giới xung quanh chúng ta thông qua các bài ca dao, đồng dao, bài thơ, câu chuyện. Làm quen với văn học còn là một môn học có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục và phát triển về mọi mặt cho trẻ trong trường mầm non. Làm quen với văn học còn là một môn học có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục và phát triển về mọi mặt cho trẻ trong trường mầm non. Vì vậy nếu thực hiện tốt việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học sẽ là phương tiện giáo dục tốt nhất, mang lại cho trẻ thơ những xúc cảm lành mạnh, hình thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, giúp trẻ phát triển khả năng ghi nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo, làm phong phú đời sống tinh thần, làm giàu vốn từ và phát triển ngôn ngữ ở trẻ, tạo điều kiện để trẻ tiếp thu các môn học khác một cách dễ dàng.
Đến với mỗi câu chuyện, bài thơ là trẻ lại được bước vào một thế giới vừa thực,vừa ảo, với bà tiên, ông bụt, với những nhân vật đáng yêu, đáng ghét. Việc tạo cho trẻ được tiếp xúc với tác phẩm văn học, không những giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh mà còn phát triển khả năng tư duy, chú ý, ghi nhớ. Đặc biệt còn giúp trẻ phát triển mạnh mẽ về ngôn ngữ. thông qua các câu chuyện với ngôn ngữ rất giàu hình ảnh và có sắc gợi cảm, không chỉ làm phong phú thêm vốn từ cho trẻ, mà còn giúp trẻ 3-4 tuổi nói đủ câu, rõ ràng, mạch lạc. Các câu chuyện, bài thơ này còn là những bài học giáo dục đạo đức, thẩm mỹ đến với trẻ một cách dễ dàng. Ở lứa tuổi mẫu giáo nói chung, nhất là các bé lớp 3-4 tuổi của tôi nói riêng cháu chưa biết đọc, chưa biết viết, mà trẻ dựa vào ngôn ngữ, lời nói của cô kết hợp với đồ dùng trực quan trong tiết học, giúp trẻ tìm tòi, khám phá mọi sự vật hiện tượng xung quanh trẻ. Vì vậy trẻ đặt ra muôn vàn câu hỏi tại sao? Cái gì? Ai ?Vì sao lại thế, Chuyện gì sẽ sảy ra… để người lớn trả lời. Do đó cô giáo giữ một vị trí vô cùng quan trọng, là người bắc nhịp cầu nối để đem các tác phẩm văn học đến với trẻ.
2. Cơ sở thực tiễn
Mặc dù nhận thức rõ được những vấn đề nêu trên, song bản thân tôi còn băn khoăn rất nhiều về điều kiện cơ sở vật chất, về khả năng văn học của bản thân.
Là giáo viên được phân công dạy lớp 3-4 tuổi tôi nhận thấy kết quả cho trẻ làm quen với văn học chưa cao, việc xây dựng môi trường cho trẻ làm quen văn học còn hạn chế, trẻ chưa thực sự hứng thú khi học bộ môn làm quen văn học. Điều này khiến bản thân tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với văn học, đáp ứng được yêu cầu giáo dục Mầm non mới. Đây là mong muốn và là trách nhiệm của người giáo viên vì vậy tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 3- 4 tuổi học tốt môn Làm quen văn học”.
II. MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN
Tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng việc tạo hứng thú cho trẻ học tốt môn làm quen văn học, Củng cố cho trẻ tên các câu chuyện ,bài thơ, ca dao, đồng dao, các nhân vật trong truyện, các hình ảnh trong thơ, các hình tượng trong các bài đồng dao ca dao tục ngữ.
Nhằm giúp những đứa trẻ hiểu nội dung và nhớ được trình tự câu chuyện, câu thơ các câu đồng dao ca dao tục ngữ một cách dễ hiểu nhất đối với trẻ con.
Thông qua nội dung truyện, bài thơ và các hình tượng trong các bài đồng dao ca dao, tục ngữ trẻ biết yêu thương chia sẻ và quan tâm đến mọi người xung quanh, từ đó tôi chọn lọc các hình thức, hình ảnh trực quan, các hình thức tổ chức để tạo hứng thú phù hợp với trẻ 3-4 tuổi cảm nhận được các tác phẩm văn học một các thuận lợi và dễ dàng nhất.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi học tốt môn làm quen văn học
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong đề tài này tôi đã chọn và sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan và đàm thoại.
2. Phương pháp đọc kể diễn cảm.
3. Phương pháp thực nghiệm.
4. Phương pháp tuyên truyền với các bậc phụ huynh.
5. Phương pháp nghiên cứu sử dụng tài liệu.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trẻ 3-4 tuổi ở lớp MGB
VI. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Đề tài được nghiên cứu thực hiện một năm học từ tháng 09/2018 đến tháng 03/2019 cụ thể:
- Tháng 9/2018: Xác định đề tài nghiên cứu
- Tháng 10/2018: Viết đề cương
- Tháng 11/2018 đến tháng 1/2019: Nghiên cứu thực tế
- Tháng 2/2019: Viết nghiên cứu thực tế
- Tháng 3,/2019: Viết theo mẫu
- Tháng 4/2019: Sửa đổi bổ sung và hoàn thiện đề tài.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Một số khái niệm:
1.1 Văn học là gì?
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ.
Khái niệm văn học đôi thường được sử dụng tương tự như khái niệm văn chương và thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, xét về mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương. Văn chương thường nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của văn học về phương diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ.Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng,phản ánh và thể hiện đời sống.
1.2 Làm quen tác phẩm văn học là gì?
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là quá trình sư phạm,bước đầu nhằm giúp trẻ có những hiểu biết nhất định về văn học nghệ thuật. Qua đó góp phần phát triển tình cảm đạo đức, phát triển những xúc cảm thẩm mĩ và đặc biệt là phát triển ngôn ngữ
Làm quen tác phẩm văn học chỉ ra mức độ ,giới hạn, yêu cầu của việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học thông qua nghệ thuật đọc kể của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt ,hướng dẫn trẻ cảm nhận những hứng thú đối với văn học có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động hứng thú với tác phẩm văn học có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay, cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận qua đó các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, phát triển khả năng cảm thụ của trẻ góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
2. Vai trò của bộ môn làm quen văn học
Đối với trẻ 3-4 tuổi luôn được những người thân trong gia đình như ông, bà, bố, mẹ yêu thương, chăm sóc, trẻ chưa được làm quen với thế giới xung quanh nhưng khi đến trường mầm non thế giới xung quanh được mở ra trước mắt trẻ vô cùng đẹp và thích thú cái gì cũng mới lạ, điều gì trẻ cũng muốn được khám phá, trẻ luôn đặt ra những câu hỏi hồn nhiên và ngộ nghĩnh.” Cái gì đây?, Để làm gì?, Con gì đây?, Sao lại biết bơi?, Bơi ở đâu?...”. Tất cả những câu hỏi ngộ nghĩnh đó đều bắt nguồn từ sự quan sát của trẻ. Nếu người lớn chỉ giải thích bằng những ngôn ngữ đơn thuần thì trẻ rất mau quên và chóng chán.
3. Đặc điểm ngôn ngữ trẻ 3-4 tuổi
Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở giai đoạn này là tư duy trực quan hành động, chú ý của trẻ là chú ý không chủ định. Vì vậy đối tượng nào gây sự chú ý và thích thú đến với trẻ thì trẻ sẽ tập trung chú ý và nhớ lâu hơn.
Đối với truyện giáo viên nên lựa chọn truyện khoảng 60-100 từ với 2-3 sự kiện
Thể thơ lục bát 5 chữ với trẻ MGB bài thơ khoảng 6-8 câu
Về đặc điểm tâm sinh lý: Với trẻ 3-4 tuổi khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định của trẻ đang phát triển nhưng chưa hoàn thiện, ngôn ngữ diễn đạt bằng lời còn bị hạn chế. Chính vì vậy thông qua các câu chuyện bằng hình ảnh trực quan như rối dẹt, rối tay,tập đóng vai các nhân vật, tranh động, qua sự minh họa của cô giúp trẻ hứng thú và hiểu được hành động, tính cách, tình cảm của từng nhân vật khi trẻ được làm quen trong tác phẩm văn học.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Đặc điểm tình hình
1.1 Thuận lợi
a. Về cơ sở vật chất
- Trường với qui mô toàn trường có 10 lớp học: 4 lớp MG lớn, 2 lớp MG nhỡ, 2 lớp MG bé , 2 lớp nhà trẻ . Toàn trường có tổng số 32 đồng chí CB- GV- NV và gần 400 cháu ở các độ tuổi.
- Trường có đầy đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ.
b. Về phía BGH
- Luôn được sự hướng dẫn và chỉ đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục quận Hoàng Mai và sự quan tâm và tạo điều kiện về mọi mặt của BGH trường mầm non……..
- Trường đã làm tốt phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội và nâng cao kỹ năng tự phục vụ cho trẻ .
- Nhà trường cũng có kế hoạch chuyên đề cho từng lứa tuổi, từng chủ điểm sao cho phù hợp với lứa tuổi trẻ, với lớp mình. Từ đó đề ra những biện pháp cụ thể để phát triển hứng thú cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi nói riêng.
c. Đối với giáo viên
Năm học 2018-2019, được sự quan tâm chỉ đạo của phòng giáo dục, các cấp, các ngành, đặc biệt là ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất và chuyên môn.
Hàng năm chúng tôi được học lớp bồi dưỡng trong hè và dự các buổi chuyên đề của phòng, của trường bạn và nhà trường tổ chức các buổi tập huấn, kiến tập trao đổi chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy và học. Đó cũng là điều kiện để tôi được học tập, củng cố thêm kiến thức phục vụ cho tiết dạyvà tổ chức các hoạt động của mình cho trẻ
Mỗi giáo viên đều có kế hoạch giảng dạy các môn học và các hoạt động rất cụ thể ngay từ đầu năm học.
Bản thân là giáo viên có trình độ chuẩn về chuyên môn, thực sự có tấm lòng yêu nghề mến trẻ, có kinh nghiệm trong chăm sóc giáo dục.
Cơ sở vật chất có đủ đồ dùng tối thiểu.
Được phụ huynh tin yêu, bạn bè đồng nghiệp quý mến.
d. Đối với trẻ
Số trẻ đến lớp phù hợp, đạt tỉ lệ chuyên cần cao.
Một số trẻ có khả năng ghi nhớ rất nhanh.
e. Phụ huynh
- Được rất nhiều các bậc phụ huynh quan tâm, ủng hộ nhiệt tình khi thực hiện chuyên đề.
- Phụ huynh quan tâm, chăm sóc giáo dục con nên thuận lợi trong việc tuyên truyền kết hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường
2. Khó khăn
a. Cơ sở vật chất
- Diện tích quy hoạch sân chơi trong trường chưa có khu vực chuyên biệt.
- Chưa có nhiều đồ dùng , tư liệu sử dụng trong hoạt động
b. Đối với Ban Giám Hiệu
- Do diện tích trường trật hẹp Ban giám hiệu chưa có đủ phòng làm việc riêng
- Trường có 2 cơ sở do đó ban giám hiệu làm việc tại 2 địa điểm việc di chuyển đi lại 2 cơ sở để sát sao các hoạt động của nhà trường còn mất thời gian.
c. Đối với giáo viên
- Kinh nghiệm tổ chức cho trẻ làm quen với văn học còn hạn chế.
- Đồ dùng trực quan còn ít, chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ , giá trị sử dụng chưa cao.
d. Đối với trẻ
Phòng lớp trật hẹp
Khả năng nhận thức của trẻ chưa cao, một số trẻ còn nói ngọng, nhận thức không đồng đều. Vì vậy sự hứng thú học tập của trẻ còn chưa cao.
Đầu năm học lớp tiếp nhận 1 số cháu mới, các cháu này chưa được học qua các lớp mẫu giáo trước đó, do vậy trẻ chưa có những nề nếp và thói quen trong các hoạt động ở trường . Đặc biệt trẻ bị thiếu hụt kiến thức rất nhiều. Đây cũng là một trong những khó khăn khi giáo viên truyền thụ kiến thức cho trẻ.
e. Đối với phụ huynh
- Phụ huynh ở lớp phần lớn là tiểu thương nhỏ và làm nghề khác nên ít có thời gian và điều kiện quan tâm đến con em mình, đặc biệt là việc kèm cặp các cháu việc giúp trẻ tiếp cận với các tác phẩm văn học còn ít và hạn chế
VD: Phụ huynh không có thời gian đọc chuyện , kể chuyện cho trẻ nghe hay chơi trò chơi , dở sách…. Cùng trẻ.
- Một số phụ huynh còn chưa hiểu hết được tầm quan trọng của ngành học mầm non nên chưa thực sự quan tâm đến trẻ.
3. Khảo sát trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi học tốt hoạt động làm quen văn học:
3.1. Mục tiêu khảo sát:
Điều tra thực trạng trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi học tốt hoạt động làm quen văn học
3.2. Nội dung khảo sát:
Khảo sát về mức độ tiếp nhận kiến thức hiểu biết của trẻ về hoạt động làm quen văn học.
3.3 Kết quả khảo sát trẻ trước khi thực hiện
Kết quả khảo sát, đánh giá trên trẻ ở đầu năm học như sau:
Số trẻ : 27 trẻ
Năm học 2018-2019 tôi thực hiện đề tài này với số trẻ là 27 cháu.
ST
|
NỘI DUNG KHẢO SÁT
|
ĐẠT
|
CHƯA ĐẠT
|
Số lượng
|
Tỷ lệ %
|
Số lượng
|
Tỷ lệ %
|
1
|
Hiểu nghĩa từ khái quát gần gũi
|
15/27
|
55,6
|
12/27
|
44,4
|
2
|
Sử dụng được các từ thông dụng chỉ sự vật ,hiện tượng, đặc điểm
|
6/27
|
22,3
|
21/27
|
77,7
|
3
|
Kể chuyện có mở đầu kết thúc
|
12/27
|
44,4
|
1527
|
55,6
|
4
|
Bắt chước giọng nói của nhân vật trong chuyện
|
12/27
|
44,4
|
15/27
|
55,6
|
5
|
Mô tả hành động của các nhân vật trong tranh
|
11/27
|
40,7
|
16/27
|
59,3
|
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch
1.1 Xác định mục đích yêu cầu
Xác định mục đích yêu cầu dựa trên kết quả mong đợi của chương trình và khả năng của trẻ tại lớp MGB- C1 và của từng cá nhân trẻ
Xác định dựa trên đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 3-4 tuổi
Bé 3 tuổi đã biết nói và bước sang một giai đoạn mới trong việc phát triển ngôn ngữ của mình, vốn từ mở rộng thêm và khả năng sử dụng ngữ pháp đáng ngạc nhiên khiến bạn có thể hiểu được hơn… 3 hoặc 4 từ trong những gì trẻ nói.
Bé thường sử dụng những câu dài hơn, thường trên 3 từ, và phát triển nhiều hơn về từ vựng, từ 300 đến 1.000 từ hoặc nhiều hơn.
Các bé 3 tuổi rất thích nói và hát. Cách diễn đạt dài dòng cũng là một dấu hiệu của tuổi này. Trẻ có thể trả lời những câu hỏi đơn giản hoặc đặt câu hỏi với bạn. Đôi khi, trẻ chỉ nói liên miên không ngừng chứ không mấy để ý đến câu trả lời.
Trẻ cũng bắt đầu mô tả những gì trẻ nhìn thấy hoặc đang làm và bắt đầu tìm từ ngữ để giải thích cho những chuyện đó. Bạn nên chỉ cho trẻ cách sử dụng tính từ nhiều hơn, ví dụ: chiếc xe hơi to màu đỏ, và dùng đúng động từ trong mỗi hoàn cảnh.
các câu chuyện khoảng 60-100 từ với 2-3 sự kiện
Thể thơ lục bát hoặc 5 chữ khoảng 6-8 câu
Khi bé yêu của bạn bốn tuổi, bé đã có thể có thể hiểu những câu hỏi đơn giản “ai?”, “cái gì”, “ở đâu”, và có thể nghe thấy bạn khi bạn gọi bé từ phòng bên cạnh. Thậm chí, bé đã có thể nói rõ ràng để mọi người có thể hiểu, và có thể nói được những câu phức tạp có những từ “bởi vì” hay "nhưng”, tuy nhiên một số âm bé vẫn còn phát âm chưa rõ nét. Nếu bạn đưa bé vào siêu thị đồ chơi trẻ em, hỏi bé thích gì, bé sẽ trả lời “con xích chiêu nhân” (con thích siêu nhân), rõ ràng, bé yêu đã trưởng thành lên nhiều so với hồi 3 tuổi, bé của bạn đã nói trọn câu, và bày tỏ mong muốn của mình một cách đầy đủ, có thể đếm đến 10 hoặc hơn thế. Bé cũng đã phân biệt được các màu sắc khác nhau trên trang phục của bé, và thường thích tự lựa chọn trang phục trước khi đến trường.
Ở tuổi lên bốn, bé yêu cũng trở nên thích truyện và có thể trả lời câu hỏi về nhân vật trong truyện. Trẻ cũng đã có thể hiểu gần như mọi điều người khác nói với mình tại nhà, tại trường mầm non hay nhà giữ trẻ vì khả năng nghe ở mọi thời điểm của bé đã vững vàng. Bé có thể kể cho bạn nghe những câu chuyện có thật do bé được nghe ở trường mẫu giáo, xem trên chương trình tivi hoặc thậm chí do bé tự nghĩ ra. Đôi lúc, bạn có thể bật cười, vì bé ôm chầm con búp bê yêu thích của bé, đưa búp bê đi tắm, rồi ru ngủ và căn dặn như một người mẹ thực thụ. Bé thích chơi đồ hàng và đóng các vai như ông bố bà mẹ, và xưng hô theo cách của người lớn, hoặc như những nhân vật trong các câu chuyện bé được nghe, bé hội thoại như chính cách bé đã lắng nghe mọi người trong cuộc sống thường ngày.
Bé của bạn không ngừng đặt những câu hỏi “Tại sao bầu trời xanh?”, “Tại sao con là con trai?”bởi lúc này, bé đang ở trong giai đọan học hỏi khá quan trọng. Hãy để bé sải những bước chân tự nhiên trong khi bạn đưa ra cho bé các cơ hội để khuyến khích thúc đẩy lòng hăng hái và sức sáng tạo ở bé. Nếu bạn muốn cho bé phát triển về mặt âm nhạc hoặc hội họa thì đây cũng là một thời điểm tốt vì bé đã nhận ra được các giai điệu, âm sắc trong các bản nhạc và đã vẽ được những bức tranh thực và khéo léo hơn từ chính những câu hỏi bé được giải đáp đó. Trong những trò chơi đóng vai, bé sẽ diễn những kịch bản từ trí tưởng tượng phong phú của mình vì bé đã hình thành ngôn ngữ giao tiếp hai chiều đơn giản. Như vậy, khả năng ngôn ngữ của bé đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong giai đoạn bé bốn tuổi.
1.2 Xây dựng ngân hàng nội dung và dự kiến hoạt động
Để đảm bảo hệ thống bài được khoa học, dàn trải đều trong 1 năm không bỏ sót các mục tiêu giáo dục tôi đã xây dựng dự kiến hoạt động phát triển ngôn ngữ năm học 2018-2019.
Phát triển
ngôn ngữ
|
1. Thực hiện được yêu cầu đơn giản, ví dụ: “Cháu hãy lấy quả bóng, ném vào rổ”.
|
-Thực hiện: Tháng 9 , 10
- Đánh giá:
Tháng 10
|
* HĐ học
*HĐ khác : TC truyền tin, cái gì thay đổi, ai nói đúng, hãy nhắc lại cho đúng, Làm theo cô, ai làm giỏi,
Trò chuyện đầu giờ, hoạt động chiều, hoạt động chuyển tiếp, hoạt động ngoài trời, hoạt động góc.
|
|
2. Hiểu nghĩa từ khái quát gần gũi: quần áo, đồ chơi, hoa, quả…
|
-Thực hiện: Tháng 10
- Đánh giá:
Tháng 10
|
* HĐ học
*HĐ khác : Trò chuyện, xem tranh ảnh, clip về các quần áo, đồ chơi, hoa, quả…
|
|
3. Lắng nghe và trả lời được câu hỏi của người đối thoại.
|
-Thực hiện: Tháng 12,1
- Đánh giá:
Tháng 1
|
* HĐ học: -Truyện : Cô mây
-Truyện : Nàng tiên mưa
-Truyện : Giọt nước tí xíu
*HĐ khác : Thông qua giờ đón trả trẻ, TC với trẻ, kể cho trẻ nghe chuyện và đàm thoại, hoạt động ngoài trời, đọc các câu đố.
|
|
4. Nói rõ các tiếng.
|
-Thực hiện: Tháng 11,12
- Đánh giá:
Tháng 12
|
* HĐ học : Thơ: Bé yêu trăng, cô giáo của con, miệng xinh,bà và cháu, đồng hồ quả lắc, chú bồ đội,
khuyên bạn, tết đang vào nhà, câyđào, cây dây leo, chùm quả ngọt, dán hoa tặng cô, đàn gà con, con voi, rong và cá, mưa, đi nắng. cây bắp cải.
Kể truyện: cậu bé mũi dài, quà tặng mẹ, món quà của cô giáo, nhổ củ cải, giọt nước tí xíu, xe lu và xe ca, chuyến du lịch của gà trống choai, sự tích các loài hoa, chú đỗ con, giọng hót chim sơn ca.
Truyện : Chú vịt xám
Truyện : Vịt con ham chơi
Truyện : Rùa và Thỏ
*HĐ khác :
|
|
5. Sử dụng được các từ thông dụng chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm ...
|
-Thực hiện: Tháng 10,11
- Đánh giá:
Tháng 11
|
* HĐ học
*HĐ khác : Cho xem tranh, ảnh, clip ô tô, máy bay, tàu hỏa, các con vật, một số loại hoa, quả
|
|
6. Sử dụng được câu đơn, câu ghép.
|
-Thực hiện: Tháng 111,12,1
- Đánh giá:
Tháng 12
|
* HĐ học
*HĐ khác : Cho trẻ xem tranh ảnh
|
|
7. Kể lại được những sự việc đơn giản đã diễn ra của bản thân như: thăm ông bà, đi chơi, xem phim,..
|
-Thực hiện: Tháng 12,1,2
- Đánh giá:
Tháng 2
|
* HĐ học : Truyện : Giáng sinh đầu tiên của chuột Tip
*HĐ khác : Cho trẻ xem phim, tranh ảnh về người thân yêu trong gia đình., đi chơi….
|
|
8. Đọc thuộc bài thơ, ca dao, đồng dao...
|
-Thực hiện: Tháng 2,3,4
- Đánh giá:
Tháng 3
|
* HĐ học : Thơ: Bé yêu trăng, cô giáo của con, miệng xinh,bà svà cháu, đồng hồ quả lắc, chú bồ đội,
khuyên bạn, tết đang vào nhà, câyđào, cây dây leo, chùm quả ngọt, dán hoa tặng cô, đàn gà con, con voi, rong và cá, mưa, đi nắng. cây bắp cải.
HĐK:Đồng dao lúa ngô là cô đậu lành
Gánh gánh gồng gồng
-Dềnh dềnh dàng dành
*HĐ khác : Thơ: Bé ơi, bé sạch, bé ơi, cái mũi, đôi dép,.....
Truyện; Bé mai dũng cảm, bác cấp dưỡng, qua đường, kiến con đi ô tô, nu na đón tết, quà tặng mẹ, thỏ con ăn gì, cậu bé mũi dài, đôi dép, mỗi người một việc bạn mới, của chung, trường của bé, bé yêu trăng, Đôi bàn tay, mẹ đi vắng, chia bánh, cô giáo của con, chú cảnh sát, bác sĩ, chú bộ đội, tàu hỏa, máy bay, mùa xuân , cây đào, quả dứa, dán hoa tặng mẹ, bắp cải xanh, đàn gà con, con mèo, rong và cá, con voi, trời mưa, mùa hạ tuyệt vời, Hồ Gươm, Bác Hồ của em. ,
Đồng dao - ca dao - trò chơi dân gian: Mèo đuổi chuột, cưỡi ngựa nhong nhong, Trồng nụ trồng hoa, dung dăng dung dẻ, đi cầu đi quán, lộn cầu vồng, tay đẹp,rềnh rềnh ràng rang, Con vỏi con voi,…
Trò chơi luyện phát âm, khả năng nghe hiểu cho trẻ: Nói theo cô, bạn nào nói đúng, nói cho bạn nghe,......
TC: Truyền tin, hãy bắt chướco gống tôi, ai nhanh nhất.
|
|
9. Kể lại truyện đơn giản đã được nghe với sự giúp đỡ của người lớn.
|
-Thực hiện: Tháng 12,1
- Đánh giá:
Tháng 1
|
* HĐ học : Bé Minh quân dũng cảm, Mỗi người một việc, quà tặng mẹ, nhổ củ cải, xe lu và xe ca, hoa mào gà
*HĐ khác : Cho xem phim hoạt hình ở sóc nhí, youtube.
|
|
10. Bắt chước giọng nói của nhân vật trong truyện.
|
-Thực hiện: Tháng 2,3,4
- Đánh giá:
Tháng 3
|
* HĐ học:
*HĐ khác : Cho trẻ chơi góc văn học: Cho chơi rối, kể truyện theo tranh….
|
|
11. Sử dụng các từ vâng ạ, dạ, thưa, … trong giao tiếp .( Trọng tâm )
|
-Thực hiện: Tháng 9,10
- Đánh giá:
Tháng 10
|
* HĐ học
*HĐ khác : TC với trẻ thông qua giờ đón trả trẻ, qua góc khám phá., hoạt động có chủ đích, khi được nhận quà….
|
|
12. Nói đủ nghe, không nói lí nhí.
|
-Thực hiện: Tháng 1,2,3
- Đánh giá:
Tháng 2
|
* HĐ học : HĐ văn học , âm nhạc
+ Thơ : tết đang vào nhà, cây đào,
+ Truyện : thỏ bong bị ốm
+ Âm nhạc : Màu hoa, sắp đến tết rồi
*HĐ khác : TC truyền tin, hãy bắt chước giồng tôi, ai nhanh nhất.
|
|
13. Đề nghị người khác đọc sách cho nghe, tự giở sách xem tranh.
|
-Thực hiện: Tháng 3,4
- Đánh giá:
Tháng 4
|
*HĐ khác : - Hoạt động đọc sách Bé làm sách, bộ sưu tập của bé, kể chuyện theo tranh, kể chuyện sáng tạo,
- Tạo hình: Vẽ trên sân trường, vẽ theo ý thích, làm quen với màu nước
- TC: 2 bàn tay xinh, những ngón tay kì diệu
|
|
14. Nhìn vào tranh minh họa và gọi tên nhân vật trong tranh.
|
-Thực hiện: Tháng 3,4
- Đánh giá:
Tháng 3
|
* HĐ học
*HĐ khác : Trò chơi : Trò chuyện về những nhân vật yêu thích.
|
|
15. Thích vẽ, ‘viết’ nguệch ngoặc.
|
-Thực hiện: Tháng 4,5
- Đánh giá:
Tháng 4
|
*HĐ khác : Vẽ tự do trên sân trường, vẽ theo ngón tay.
Vẽ theo ý thích, vẽ cỏ cây trên mặt đất, vẽ con gà,….
|
1.3 Xây dựng kế hoạch giáo dục
Tháng
|
Tuần 1
|
Tuần 2
|
Tuần 3
|
Tuần 4
|
Tuần 5
|
9
|
Thơ : Bạn mới
|
Thơ : Lớp học của bé
|
Thơ : Bé yêu trăng
|
|
|
10
|
Văn học
Thơ : Đôi mắt của em
Thơ : Miệng xinh
|
Văn học
Truyện:
Cháu ngoan.
|
Văn học
Truyện : quà tặng mẹ
|
Văn học
Truyện:
Gấu con bị đau răng.
|
|
11
|
Văn học
Thơ : bà và cháu
|
Văn học
Thơ : đồng hồ quả lắc
|
Văn học
Thơ: - Chiếc quạt nan
|
Văn học
Truyện : món quà của cô giáo
Thơ : mẹ và cô
|
Văn học
Thơ : em làm thợ xây
|
12
|
Văn học
Thơ: Thỏ bông bị ốm
|
Văn học
Truyện : Nhổ củ cải
|
Văn học
Thơ : Bộ đội
MT 46
|
Văn học
Đồng dao : dung dăng dung dẻ
Truyện : Giáng sinh đầu tiên của chuột Típ
|
|
1
|
Văn học
Thơ : Cây dây leo
|
Văn học
Truyện : hoa mào gà
|
Văn học
Thơ : chùm quả ngọt
|
Văn học
Truyện : chú đỗ con
|
Văn học
Truyện : sự tích các loài hoa
|
2
|
Văn học
Thơ : tết đang vào nhà
|
Văn học
Thơ : cây đào
|
Văn học
Thơ : thỏ bông bị ốm
|
|
|
3
|
Văn học
Thơ : dán hoa tặng mẹ
|
Văn học
Thơ : đàn gà con
Truyện : Chú vịt xám
Truyện : Vịt con ham chơi
|
Văn học
Thơ : con voi
Truyện : Rùa và Thỏ
MT 56
|
Văn học
Thơ : rong và cá
|
|
4
|
Văn học
Truyện : xe lu và xe ca
Thơ : Xe cần cẩu
|
Văn học
Thơ : tập gấp máy bay
|
Văn học
Truyện : chuyến du lịch của chú gà trống choai
|
Văn học
Thơ : đi nắng
Đồng dao : Con vỏi con voi
|
|
5
|
Văn học
Thơ : kể cho bé nghe
Truyện : Giọt nước tí xíu
|
Văn học
Thơ : mưa
Truyện : Cô mây
Truyện : Nàng tiên mưa
|
Văn học
Truyện : ai ngoan sẽ được thưởng
|
|
|
Căn cứ vào bảng chia mục tiêu và dự kiến hoạt động theo tháng theo tuần tôi đã xây dựng hoạt động theo ngày
2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường cho trẻ làm quen với văn học.
2.1 mục tiêu khảo sát điều tra thực trạng trẻ MGB 3-4 tuổi
- Nghe hiểu lời nói
- Sử dụng lời nói trong hoạt động hàng ngày
- Làm quen với việc đọc –viết
2.2 Phương pháp khảo sát
- Việc xây dựng môi trường hoạt động cho trẻ làm quen với văn học là vô cùng quan trọng. Để tạo môi trường đa dạng, hấp dẫn, phù hợp với trẻ, mang tính thẩm mỹ, thu hút sự quan sát tìm tòi của trẻ là một vấn đề thật khó khăn. Do đó tôi đã cố gắng xây dựng để tạo ra môi trường phong phú, đa dạng, thẩm mỹ.
- Tôi trang trí lớp đẹp, phù hợp với độ tuổi, chú trọng môi trường cả trong và ngoài lớp. Tận dụng những khoảng trống không gian và những vị trí phù hợp trong lớp để treo những quyển truyện tranh có nhiều hình ảnh đẹp. Trang trí lớp bằng những hình ảnh mang nội dung câu chuyện có tính giáo dục cao.
+ Các tiêu chí xây dựng môi trường giáo dục
* Đảm bảo an toàn về mặt tâm lý cho trẻ và trẻ thường xuyên được giao tiếp,thể hiện mối quan hệ thân thiện giữa trẻ với trẻ, với những người xung quanh.
* Hành vi cử chỉ lời nói thái độ của giáo viên đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo
* Môi trường vật chất trong lớp ngoài lớp đáp ứng nhu cầu hứng thú chơi của trẻ tạo điều kiện cho tất cả các trẻ đều được chơi
* Các khu vực trong nhà trường được qui hoạch theo hướng tận dụng không gian để trẻ hoạt động phù hợp và linh hoạt
* Khuyến khích trẻ hoạt động đa dạng theo nhiều cách khác nhau. tạo điều kiện cho trẻ hoạt động trải nghiệm, khám phá dưới nhiều hình thức
* Tạo những điều kiện, cơ hội tận dụng hoàn cảnh, tình huống thật cho trẻ trải nghiệm khám phá trong môi trường an toàn, GV cần rà soát loại bỏ những mối nguy hiểm đối với trẻ....
+ Xây dựng môi trường phát triển ngôn ngữ trong nhóm lớp
* Nguyên tắc đổi mới xây dựng môi trường ngôn ngữ
- Tạo môi trường ngôn ngữ đa dạng, sinh động, tạo sự hấp dẫn lôi cuốn trẻ phù hợp với độ tuổi
- Tận dụng không gian, vị trí hợp lý để tạo ra môi trường ngôn ngữ cho trẻ
Môi trường trong lớp: Sử dụng chữ cái trong môi trường lớp để trẻ có nhiều cơ hội tiếp xúc với chữ
Môi trường ngoài lớp:Tận dụng các vị trí khu vực hợp lý để gắn các biển chỉ dẫn kèm hình ảnh minh họa giúp trẻ hiểu ý nghĩa của kí hiệu
Bổ đều không bỏ sót liệt kê kĩ bài khoa học chọn các bài tập theo tháng
Tháng 9
|
Tháng 10
|
Tháng 11
|
Tháng 12
|
Tháng 1
|
Tháng 2
|
Tháng 3
|
Tháng 4
|
Tháng 5
|
Trường mầm non
|
Bản thân
|
Gia đình
|
Nghề nghiệp
|
Thực vật
|
Tết và mùa xuân
|
Động vật
|
Giao Thông
|
Tự nhiên quê hương Bác Hồ
|
- Trước khi dạy một câu truyện hay bài thơ nào đó tôi thường cắt dán những hình ảnh mang nội dung câu chuyện và dán lên góc “ Bé cùng cô kể chuyện” (phụ lục 2)
- Xây dựng góc “Thư viện của bé” đảm bảo đủ ánh sáng, yên tĩnh cho trẻ với nhiều loại sách, truyện, tranh ảnh, họa báo, sách tự làm của trẻ. Sắp xếp theo thứ tự từng loại, có ký hiệu riêng để thuận tiện cho việc chọn sách của trẻ.
- Để cho góc văn học thêm phong phú, tôi luôn quan tâm thay đổi cách trang trí, chú trọng sử dụng các sản phẩm do cô và trẻ tự làm: Vẽ, xé dán…các hình ảnh có nội dung phù hợp với các nhân vật trong truyện. (phụ lục 2)
- Làm thêm nhiều đồ dùng, đồ chơi như: Sân khấu kể chuyện, sa bàn gần gũi với nội dung truyện, mũ rối và các nhân vật trong truyện, thơ. Để cho trẻ được hóa trang vào các nhân vật, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, trí tưởng tượng sáng tạo.
- Mặc dù điều kiện cơ sở vật chất (Phòng lớp trật, hẹp, đồ dùng, đồ chơi còn thiếu thốn rất nhiều…) nhưng tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý sắp xếp đồ dùng, đồ chơi gọn gàng khoa học để trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ lựa chọn tạo môi trường học thoải mái cho trẻ.
- Luôn chú ý đến việc thay đổi cách trang trí lớp và thay đổi đồ dùng, đồ chơi mới lạ, đẹp mắt theo từng chủ đề, từng giai đoạn để tạo niềm vui cho trẻ khi đến lớp, giúp trẻ hứng thú làm quen với văn học.
- Có thể nói, trẻ được học trong môi trường như vậy sẽ để lại những ấn tượng đẹp đẽ về những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm là điều kiện thuận lợi để trẻ nắm bắt tri thức và tạo cảm giác thoải mái khi bước vào hoạt động học.
3. Biện pháp 3: Sưu tầm, các lời đồng dao đưa vào hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Những bài hát dân ca, trò chơi dân gian giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm hồn trẻ thơ. Những làn điệu dân ca, những câu thơ giàu nhạc tính dễ thuộc, dễ nhớ phản ánh được nhiều mặt tâm hồn của trẻ - Phát triển ở trẻ tình cảm thẩm mỹ, tình yêu thiên nhiên, yêu con người. Vì vậy trong năm học này tôi đã sưu tầm, mua đĩa các bài hát dân ca, đồng dao để sử dụng mở cho trẻ nghe trong giờ đón trẻ và các thời điểm thích hợp trong ngày.
Tôi luôn cố gắng sưu tầm đặt lời mới cho một số làn điệu dân ca, bài hát quen thuộc phù hợp với từng chủ đề, từng tiết học để sử dụng trong các tiết văn học, làm cho các phần chuyển tiếp thêm sinh động, nhẹ nhàng hơn, với những lời ca nhẹ nhàng giúp trẻ ôn luyện củng cố, khắc sâu nội dung bài thơ, câu chuyện một cách nhẹ nhàng.
VD1: - Khi dạy bài thơ “ Cầu vồng ” kết thúc tiết học tôi cho trẻ hát bài
“ Cầu vồng ” dựa theo nhạc bài hát “ Nhà của tôi”. Giúp trẻ biết đặc điểm nổi bật của cầu vồng và khắc sâu nội dung bài thơ.
VD2: - Khi dạy truyện “ Bác gấu đen và 2 chú thỏ” tôi cho trẻ hát bài “Vui đóng kịch” dựa theo điệu “ Xòe hoa” dân ca thái
VD3: - Trong tiết kể chuyện “Cáo, thỏ và gà trống” tôi cho trẻ hát bài “Thi tài kể chuyện” theo điệu xòe hoa dân ca thái
Ngoài ra tôi cũng đã sưu tầm các bài đồng dao để có thể sử dụng cho trẻ chơi trò chơi nhằm gây hứng thú khi giới thiệu bài cho trẻ và chơi chuyển tiếp trong những giờ Làm quen văn học, làm giàu thêm các bài đồng dao trong thư viện của nhà trường.
Với các bài đồng dao có nội dung thiết thực, phù hợp với từng kế hoạch tuần, kế hoạch tháng giúp trẻ vừa học, vừa chơi. Các bài đồng dao theo cách nói vần trẻ có thể đọc đi, đọc lại không nhàm chán, không kết thúc thu hút sự tham gia hào hứng của trẻ, thỏa mãn nhu cầu vui chơi, học tập của trẻ.(Dưới đây là một số bài đồng dao mà tôi đã sưu tầm được)
DUNG DĂNG DUNG DẺ
Dung dăng dung dẻ Bé vui thầm hát
Vui vẻ đi chơi Chọn một bông hoa
Hoa nở khắp nơi Tặng mẹ, tặng bà
Mùi hương thơm ngát Con tặng cô giáo.
NU NA NU NỐNG
Nu na nu nống Đươc kể chuyện vui
Bống là bống ngoan Trường của chúng tôi
Bống đến trường làng Thích ơi là thích.
Được cô dạy hát
KÉO CƯA LỪA XẺ
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
Chạy khoẻ đến đây
Xẻ gỗ xây nhà
Giúp thỏ nâu nhé!
MÈO ĐUỔI CHUỘT
Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Thỏ nâu chạy trước
Thỏ trắng chạy sau
Hai bạn cùng nhau
Chơi trò đuổi bắt
RỒNG RẮN LÊN MÂY
Rồng rắn lên mây
Các bé lại đây
Cùng đi hỏi thăm
Đến nhà bác sỹ
Có nhà hay không?
Phục lục 2
4. Biện pháp 4: Thiết kế khai thác phát triển đồ dung học liệu.
Để hoạt động cho trẻ làm quen với văn học dù là thơ hay truyện, muốn đạt kết quả cao thì việc đầu tiên tôi phải chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học, đồ dùng đẹp, hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý của trẻ. Trước đây tôi thường sử dụng tranh minh họa làm đồ dùng chính trong hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Song với hình thức đổi mới hiện nay đa dạng thiết kế khai thác phương tiện,
* Sử dụng vật thật, vật liệu gần gũi: Rau củ quả, cácloại hoa, đồ dung…
* Sử dụng công nghệ thông tin: Xây dựng các bài giảng giáo án điện tử về bài thơ câu truyện để dạy trẻ
* Sử dụng sách truyện: Tuyển tập thơ truyện theo lứa tuổi, sưu tầm các mẩu truyện tranh, các bài thơ có hình ảnh làm sách truyện, thơ….
* Sử dụng đồ dùng tự tạo: Làm cốc nhân vật, làm rối que, rối dẹt, mũ các nhân vật trong truyện, các hình ảnh trong thơ( Phụ lục 2)
- Bản thân tôi luôn tự học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao kỹ năng thành thạo trong sử dụng máy tính.
- Tôi luôn sưu tầm băng đĩa, đao trên mạng những đoạn phim câu chuyện có hình ảnh phù hợp để đưa vào dạy trẻ.
Ví dụ: Khi dạy trẻ bài thơ: Rong và cá của chủ đề thế giới động vật, tôi đã quay những hình ảnh sống động của những chú cá đang tung tăng bơi lội.
- Với bài thơ “Mùa xuân” Tôi quay đoạn video có hình ảnh nổi bật về khung cảnh mùa xuân: Cây cối đâm chồi nảy lộc, trăm hoa đua nở, hoa đào, hoa mai khoe sắc, với những áng mây bồng bềnh đưa trẻ đến một khung cảnh mùa xuân thật đầm ấm.
- Bài thơ “Cây dây leo” với cách sử dụng hiệu ứng để làm cho từng lá non bật ra, tạo cảm giác bất ngờ, gây hứng thú cho trẻ.
- Ngoài ra, việc sử dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý tò mò của trẻ tạo điều kiện cho trẻ được tiếp cận với nghệ thuật múa rối, môn nghệ thuật truyền thống của dân tộc.
- Tôi đã tận dụng từ những nguyên vật liệu sẵn có: Vải vụn, bóng, len để tạo ra những con rối tay ngộ nghĩnh, đáng yêu.
- Hay từ những miếng xốp màu các loại, tôi đã làm ra rất nhiều rối que, rối bìa…để trẻ đến với các tác phẩm văn học một cách nhẹ nhàng, đạt hiệu quả cao.
VD1: Chuyện “Anh em mèo”. Tôi làm những chú mèo băng ống rối tay bằng những nguyên vật liệu dễ kiếm dễ làm, đầu mèo tôi làm rời, chọn những miếng vải nỉ khâu đầu nhồi bông, trang trí mắt, râu, với màu sắc gần gũi với trẻ. Khi được học tiết kể chuyện này trẻ rất thích. Trẻ mẫu giáo bé chỉ có thể hiểu đầy đủ nội dung của tác phẩm khi được nghe cô kể và được nhìn thấy đồ dùng trực quan minh họa cho lời kể. Điều đó sẽ làm cho tác phẩm văn học trở nên sống động hơn, rõ ràng hơn. Vì thế đồ dùng minh họa phải thể hiện được một cách khái quát nhưng phải đảm bảo tính hệ thống.
VD2: Chuyện “Nhổ củ cải” Tôi làm tất cả các con rối dẹt có trong câu chuyện, đằng sau dính gai. Khi kể đến nhân vật nào thì tôi đưa và dính nhân vật đó lên, với những đồ dùng trực quan nhiều thể loại, mỗi câu chuyện là những chất liệu khác nhau nên trẻ rất hứng thú.
VD3: Chuyện “ Thỏ con ăn gì” Tôi tạo hình nhân vật bằng rối dẹt và được diễn trên nền sân khấu bằng cảnh vẽ nên trẻ rất hứng thú xem cô diễn rối
VD4: Chuyện “Chú vịt xám”. Tôi làm những chú vịt bằng mũ trang trí và các nhân vật trên cốc nhựa để trẻ sử dụng. Mỗi một câu truyện tôi luôn luôn phải suy nghĩ, phải chuẩn bị đồ dạy như thế nào, khác với đồ dùng của tiết học trước để cho cháu lớp tôi chú ý tham gia vào giờ học Với việc chuẩn bị đồ dùng chu đáo trước khi vào giờ dạy, tôi cảm thấy tự tin hơn. Trẻ lớp tôi hứng thú tham gia giờ học.
5. Biện pháp 5: Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động văn học
5.1 Nội dung:
- Lựa chọn các tác phẩm phù hợp với khả năng nhu cầu hứng thú, phù hợp với mục tiêu giáo dục ở độ tuổi
- Lựa chọn tác phẩm cần:
+ Có nguồn gốc xuất xứ rõ rang, có bản quyền tác giả, nội dung gần gũi với đời sống của trẻ, thể hiện sự kết hợp các mặt giáo dục đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, ưu tiên các tác phẩm giàu tình cảm gia đình, tình yêu thương động vật…
+ Ngôn ngữ trong sáng dễ hiểu mạch lạc,
- Tác phẩm đảm bảo tính vừa sức:
+ Truyện có khoảng từ 60 đến 100 từ, với 2, 3 sự kiện thơ
+ Thơ: thể thơ lục bát hoặc 5 chữ, bài thơ khoảng 6->8 câu
5.2 Phương pháp hình thức tổ chức:
- Giáo viên lựa chọn phương pháp hình thức tiến hành hoạt động cho trẻ làm quen tác phẩm văn học, tạo hứng thú học tập thông qua chơi, cho trẻ ở độ tuổi MGB
* Với tác phẩm văn học chưa biết cho trẻ dự đoán tên truyện, nội dung truyện qua tranh minh họa, sắp xếp tranh theo dự đoán của bản thân trẻ về nội dung câu truyện, đọc kể truyện, có kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan minh họa….
* Với tác phẩm văn học trẻ đã biết: Phát hiện những tình tiết không đúng, những bức tranh khuyết, thiếu minh họa cho truyện, thơ
Sắp xếp tranh theo trình tự câu truyện trẻ đã biết, kể truyện theo tranh, tập đóng kịch….
* Một số câu hỏi cho trẻ hiểu tác phẩm truyện: Câu hỏi về nội dung, câu hỏi về tính cách nhân vật, câu hỏi về thái độ, cảm xúc chung…
* Một số câu hỏi cho trẻ hiểu tác phẩm thơ: tên bài thơ? Bài thơ nói về điều gì? Cháu thích câu thơ nào trong bài thơ?
* Đọc sách truyện cho trẻ nghe
* Kể chuyện
* Đồng dao, ca dao, tục ngữ…
- Đối với trẻ ở lứa tuổi này rất dễ nhớ nhưng cũng rất mau quên, tư duy của trẻ còn hạn chế, vì vậy việc cho trẻ làm làm quen với văn học ở mọi lúc, mọi nơi là rất cần thiết. Tôi đã cho trẻ làm quen với văn học ở mọi lúc, mọi nơi nhằm giúp trẻ hình thành và phát triển ngôn ngữ lĩnh hội kiến thức được dễ dàng.
- Trong giờ đón, trả trẻ tôi thường trò chuyện với trẻ hay cùng trẻ ôn lại một số bài thơ đã học, trò truyện về tính cách các nhân vật trong truyện. Nhắc trẻ không những đọc đúng lời mà còn phải đọc diễn cảm. Rèn cho trẻ cách nói đủ câu, không nói ngọng nhất là ngọng L - N.
- Giờ hoạt động ngoài trời: Tôi cho trẻ ra sân nhặt lá cây để tết thành những con vật ngộ nghĩnh. Sau đó đọc các bài đồng dao về các con vật.
Hay cùng nhau chơi các trò chơi dân gian như: Lộn cầu vồng, dung dăng dung dẻ, tập tầm vông, chi chi chành chành…giúp trẻ phát triển về ngôn ngữ, khả năng vận động và rèn luyện phản xạ nhanh cho trẻ.( phụ lục 2)
- Trước khi đi ngủ, tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giờ đi ngủ” và bằng những lời ru yêu thương xuất phát từ tấm lòng người mẹ kết hợp các động tác vỗ về nâng niu, ấu yếm đưa trẻ vào giấc ngủ một cách ngon lành.
“Cái bống là cái bống bang
Khéo xảy khéo sàng cho mẹ nấu cơm
Mẹ bống đi chợ đường trơn
Bống ra gánh đỡ chạy cơn mưa ròng.”
- Trong giờ hoạt động chiều, tôi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, cùng nhau tham gia vào câu lạc bộ bé yêu thơ, tổ chức cho trẻ đọc những bài thơ, bài đồng dao có trong tuyển tập những vần thơ hay cho bé. Tôi luôn sưu tầm những bài ca dao, đồng dao có trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam và sử dụng cả những bài đồng dao, ca dao do bản thân và bạn bè đồng nghiệp tự sáng tác có trong thư viện của nhà trường.
- Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho trẻ đóng kịch, hóa thân vào các nhân vật trong truyện để tái tạo lại nội dung, mô tả lại các nhân vật và các sự kiện diễn biến trong câu chuyện, hình thành cho trẻ kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, tác động trực tiếp tới sự phát triển ngôn ngữ, sự phát triển xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ ở trẻ.
- Cho trẻ làm quen với Văn học thông qua các môn học khác:
Ví dụ: Trong giờ khám phá khoa học với tiết dạy “Cô giáo của bé”, tôi trò chuyện với trẻ về công việc hàng ngày của cô giáo, giáo dục trẻ biết ngoan ngoãn, vâng lời và kính trọng người lớn. Tôi cho trẻ đọc bài thơ “Cô giáo của con”
- Trong giờ tạo hình với tiết dạy “Vẽ bông hoa”. Tôi cho trẻ vẽ hoa tặng cô nhân ngày mồng 8/3. Và để dẫn dắt vào bài tôi cho trẻ đọc thơ “Dán hoa tặng mẹ”.
- Hay trong giờ thể dục “Bật xa” của tháng 4 “Nước và hiện tượng tự nhiên” Tôi cho trẻ chơi trò chơi dân gian “Lộn cầu vồng”…
Việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở mọi lúc, mọi nơi thường xuyên như vậy đã góp phần làm giàu vốn từ cho trẻ, giúp trẻ tìm hiểu về thế giới xung quanh, hình thành cho trẻ tình cảm đối với con người, giúp cho các giờ học sinh động, hấp dẫn .
6. Biện pháp 6: Tìm hiểu, nghiên cứu các tác phẩm cho trẻ làm quen văn học.
- Ở tuổi mầm non, trẻ chưa tự đọc, tự viết được, đến lớp với tâm hồn đón đợi hướng về cô. Cô giáo là cầu nối trẻ với tác phẩm, vì thế cách trình bày diễn cảm và xúc động tác phẩm văn học có tầm quan trọng đặc biệt.
- Nắm bắt được điều này, khi cho trẻ làm quen với những tác phẩm văn học. Tôi luôn chú trọng kỹ năng đọc, kể diễn cảm. Tôi đã không ngừng học hỏi kiến thức của bạn bè đồng nghiệp để nâng cao chất lượng làm quen văn học.
- Chuẩn bị giáo án chu đáo trước khi lên lớp, đặc biệt với những tiết thơ, truyện tôi mời ban giám hiệu dự giờ góp ý giúp đỡ tôi để giờ học đạt hiệu quả cao.
- Trước khi dạy trẻ các tác phẩm văn học, tôi luôn đọc kỹ tác phẩm đó để xác định rõ giọng điệu.
VD1: Chuyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ”
Giọng của bác gấu kể với giọng ồm ồm, chậm.
Giọng thỏ trắng nhẹ nhàng, trong trẻo.
Giọng thỏ nâu gắt gỏng.
- Khi kể chuyện xác định ngữ điệu, nhịp điệu, cường độ của âm thanh, ngôn ngữ, sắc thái khác nhau để trình bày tác phẩm văn học. Đồng thời chú ý đến nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của mình sao cho phù hợp với từng nội dung của câu truyện hay tôi có thể tập kể để cho đồng nghiệp góp ý.
VD2: Chuyện”Cô bé quàng khăn đỏ”
Giọng của chó sói hung dữ, tôi kể cho các bạn, đồng nghiệp nghe xem, tôi bắt chước giọng nói đã được chưa? Nếu chưa được thì tôi nhờ bạn cùng lớp kể mẫu rôi tôi tập kể lại, kết hợp nét mặt điệu bộ, tuy nhiên có những câu chuyện khó tôi phải tập kể đi, kể lại nhiều lần, có khi nghe băng đài rồi bật đi, bật lại nghe để tự sửa. Có lúc tôi còn đứng tập kể trước gương kể sửa nét mặt điệu bộ phù hợp với tính cách của nhân vật.
VD3: Truyện “Hoa mào gà”
Giọng gà mái kể với ngữ điệu vui, phấn khởi.
Giọng của cây hoa mào gà chậm. Cứ như vậy tôi tự rèn luyện giọng đọc, giọng kể cho mình và sau một thời gian tôi nhận thấy bản thân có nhiều tiến bộ về giọng kể, kể diễn cảm, tự tin, thoải mái hơn, trẻ hứng thú nghe cô kể chuyện.
VD4: Truyện”Bông hoa cúc trắng”, trước khi kể cho trẻ nghe tôi xác định rõ giọng của từng nhân vật:
Giọng bà tiên: Trầm ấm, khoan thai tiếng vọng vang.
Giọng bà mẹ: Yếu ớt, buồn nhỏ.
Giọng cô bé: Lo lắng, hốt hoảng khi mẹ bị ốm. Trong trẻo, vui nhanh khi mẹ đã khỏi bệnh.
Giọng người dẫn chuyện: Ấm, nhỏ nhẹ, chậm rãi.
- Bản thân luôn tự tìm tòi, tham khảo tài liệu, sách báo, đao trên mạng những đĩa truyện hay những bài thơ gần gũi, thân quen phù hợp với trẻ để từ đó không những giúp trẻ đọc đúng lời mà còn rèn cho trẻ biết cách ngắt nghỉ đúng nhịp.
- Khi đọc, kể tác phẩm văn học tôi luôn kết hợp cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt… để truyền đạt những tư tưởng tình cảm mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm.( phụ lục 2)
- Lời kể, giọng đọc phải rõ ràng phù hợp với hành động, tính cách các nhân vật.
- Luôn tạo cho mình có tác phong sư phạm nhẹ nhàng, tình cảm thông qua cách thể hiện giao lưu với trẻ..
- Quan tâm nhiều hơn đến những trẻ có khó khăn về ngôn ngữ, lên kế hoạch dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi để giúp trẻ ngày càng tiến bộ.
- Khi đọc thơ hay kể chuyện cho trẻ tôi luôn thay đổi hình thức đọc, kể khác nhau, đối với những câu chuyện tôi thêm bớt từ ngữ giữa mỗi lần kể tạo cho trẻ có cảm giác hào hứng, gây sự bất ngờ hấp dẫn đối với trẻ.
Ví dụ: Khi dạy trẻ câu chuyện “Gấu con bị sâu răng” với thể loại tiết trẻ chưa biết
Tôi kể lần 1: Diễn cảm bằng lời, kết hợp cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt…cùng với việc kể chuyện khéo léo tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái, không gây căng thẳng, gò bó.
Tôi kể lần 2: Kết hợp cho trẻ xem hình ảnh
Và lần cuối tôi kể kết hợp sử dụng rối.
- Cùng với việc sử dụng câu hỏi mang tính nghệ thuật, đơn giản, ngắn gọn dễ hiểu đúng trình tự nội dung bài thơ, câu chuyện…giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng đạt hiệu quả hơn.
7. Biện pháp 7: Công tác phối kết hợp với phụ huynh
Trong quá trình giáo dục, phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ có được cơ hội rèn luyện khả năng ngôn ngữ một cách liên tục, hỗ trợ phụ huynh thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục cho trẻ tại gia đình
Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về đặc điểm và khả năng ngôn ngữ của trẻ: cung cấp cho phụ huynh tài liệu, hướng dẫn phục huynh cách chơi, cách nói chuyện với con, cách tạo điều kiện và hỗ trợ con rèn luyện ngôn ngữ. Cùng con tham gia vào việc học của con qua các buổi họp các hoạt động ngày hội ngày lễ.
- Môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu để nâng cao chất lượng làm quen văn học.
- Ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã chuẩn bị chu đáo về một số nội dung như:
+ Tuyên truyền với phụ huynh về tầm quan trọng của ngành học mầm non và tác dụng của việc nâng cao chất lượng làm quen văn học đối với sự phát triển của trẻ. Tôi đã chuẩn bị một số đồ dùng: Đĩa truyện, thơ, ti vi, đầu đĩa, máy tính và các đồ dùng khác để tuyên truyền về môn làm quen văn học.
+ Tôi đưa ra ích lợi và tác dụng của công nghệ thông tin để trẻ được làm quen với văn học.
- Góc tuyên truyền phụ huynh cần biết, tôi trang trí ở ngay cửa lớp để phụ huynh tiện xem vào giờ đón, trả trẻ. Ở góc này, tôi ghi rõ kế hoạch tháng này bé học những gì? Và thường xuyên nhắc nhở phụ huynh chú ý theo dõi trên bảng xem con em mình ở lớp được học những gì để có kế hoạch dạy thêm cho trẻ khi ở nhà.
- Đồng thời để thống nhất trong phương pháp dạy trẻ, cứ đến mỗi tháng, sự kiện tôi phô tô cho mỗi phụ huynh những bài thơ, câu chuyện có trong tháng và sự kiện đó.
- Vận động phụ huynh mang nguyên vật liệu, tranh truyện, báo, lịch cũ…để cô và trẻ cùng làm rối, tranh truyện…
- Hàng tháng tôi tuyên truyền và nội dung phối hợp từng tháng cho phụ huynh
Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh nên chất lượng làm quen văn học của lớp tôi được nâng lên rõ rệt. ( Phụ lục 3)
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau một thời gian thực hiện với lòng kiên trì, lòng say mê kết hợp với việc sử dụng các biện pháp như đã trình bày ở trên. Tôi thấy kết quả đạt được cụ thể như sau:
1. Đối với giáo viên:
- Bản thân tôi tự tin và nhiều sáng tạo hơn khi dạy trẻ.
- Nâng cao được phương pháp, nghệ thuật lên lớp.
- Giọng đọc, giọng kể được trau dồi, diễn cảm thu hút trẻ hứng thú tham gia vào tiết học.
- Biêt tận dụng những cái mới lạ vào các hoạt động để các cháu hứng thú hơn.
- Tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt ở các góc đặc biệt là góc văn học.
- Tôi đã sưu tầm được nhiều đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu, tạo ra nhiều đồ dùng phong phú, đa dạng như: Các loại rối tay, rối dẹt, rối que… có hiệu quả cao trong việc dạy trẻ làm quen văn học.
- Sáng tác, đặt lời mới cho một số bài hát, bài đồng dao
2. Đối với trẻ.
- Trẻ mạnh dạn hồn nhiên hơn, tự tin trong các hoạt động, thích được đến lớp với cô, với bạn.
- Trẻ rất say mê, hứng thú mỗi khi làm quen văn học.
- Ngôn ngữ của trẻ phát triển: Trẻ nói đủ câu rõ ràng, mạch lạc, không nói ngọng.
- Trẻ có nhiều tiến bộ rõ rệt, kết quả cụ thể như sau:
TT
|
NỘI DUNG KHẢO SÁT
|
ĐẦU NĂM
|
CUỐI NĂM
|
ĐẠT
|
CHƯA ĐẠT
|
ĐẠT
|
CHƯA ĐẠT
|
Số lượng
|
Tỷ lệ %
|
Số lượng
|
Tỷ lệ %
|
Số lg
|
Tỷ lệ %
|
Số lg
|
Tỷ lệ %
|
1
|
Hiểu nghĩa từ khái quát gần gũi
|
15/27
|
55,6
|
12/27
|
44,4
|
25
|
92,6
|
2
|
7,4
|
2
|
Sử dụng được các từ thông dụng chỉ sự vật ,hiện tượng, đặc điểm
|
6/27
|
22,3
|
21/27
|
77,7
|
23
|
85,2
|
4
|
14,8
|
3
|
Kể chuyện có mở đầu kết thúc
|
12/27
|
44,4
|
1527
|
55,6
|
24
|
88,8
|
3
|
11,1
|
4
|
Bắt chước giọng nói của nhân vật trong chuyện
|
12/27
|
44,4
|
15/27
|
55,6
|
26
|
96,2
|
1
|
3,7
|
5
|
Mô tả hành động của các nhân vật trong tranh
|
11/27
|
40,7
|
16/27
|
59,3
|
26
|
96,2
|
1
|
3,7
|
3. Về phụ huynh:
- Nhận thức được tầm quan trọng của việc cho trẻ làm quen tác phẩm văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Đóng góp kinh phí và nhiều vật liệu để tạo lên góc văn học cho lớp.
- Quan tâm và tin tưởng giáo viên khi gửi con đến lớp.
II. KẾT LUẬN
Thật vậy, việc dạy trẻ học tốt môn làm quen văn học thông qua các hoạt động như: Đọc, kể diễn cảm, tao môi trường học tập tốt cho trẻ…là một việc làm thiết thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, đòi hỏi cô giáo phải có sự sáng tạo linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn luyện giữa cô và trẻ thì sẽ đem lại kết quả cao.
Trên đây là một số kinh nghiệm dạy trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi học tốt bộ môn làm quen văn học trong trường mầm non. Tôi rất mong được sự góp ý chân thành của các quý lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để giúp tôi có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên vào việc dạy trẻ nâng cao chất lượng làm quen văn học tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
- Giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ và hiểu được tâm lý trẻ ở các độ tuổi.
- Luôn học hỏi kinh nghiệm trong phương pháp dạy trẻ.
- Lắng nghe ý kiến của lãnh đạo, đồng nghiệp và mọi người xung quanh.
- Luôn đổi mới hình thức dạy trẻ và vận dụng sáng tạo trong cách dạy.
- Quan tâm đến từng cá nhân trẻ ở mọi lúc, mọi nơi đặc biệt đối với những trẻ có khó khăn về ngôn ngữ.
- Giáo viên phải biết sưu tầm, sáng tác các bài hát, bài thơ cho trẻ học và chơi.
- Mở rộng vốn từ cho trẻ và khuyến khích trẻ sử dụng vốn từ trẻ học được trong các hoạt động khác nhau, đặc biệt qua các trò chơi phát triển ngôn ngữ, trò chuyện đàm thoại giữa cô và trẻ, trẻ với trẻ.