I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tuổi mầm non là bậc thang đầu tiên, làm nến móng cho những bậc thang tiếp theo của cuộc đời. Lứa tuổi này rất quan trọng vì có tóc độ phát triển nhanh nhất so với tất cả các lứa tuổi khác. Nhiếu nhà khoa học đã nói đến sự cần thiết của vai trò trường mầm non trong việc phát triển trẻ ở lứa tuổi này. Hứng thú học tập chủ yếu được hình thành bằng chơi : “ Chơi mà học, học mà chơi”
Như ta biết thế giới xung quanh rất phong phú, đa dạng và hấp dẫn mà trẻ lại luôn có nhu cầu tìm tòi, khám phá thế giới bí ẩn đó. Chính vì vậy mà việc tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quang là một trong những bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non. Nhờ cho trẻ làm quen với môi trường xunh quanh đã góp phần hình thành ở trẻ những biểu tượng đúng đắn về các sự vận hiện tượng, cung cấp cho trẻ những tri thức đơn giản có hệ thống về thế giới xung quanh, giúp trẻ có những hiểu biết sơ đẵng về đặc điểm, tính chất, mối liên hệ và sự phát triển của sự vật hiện tượng xung quanh. Đồng thời trong quá trình cho trẻ làm quen với sự vật hiện tượng xung quanh trẻ được tích cực sử dụng các giác quan như: Nhe, nhìn, sờ, nắm, ngửi, nếm và được tiến hành các thao tác trí tuệ : Quan sát so sánh, phân tích… do đó các giác quan của trẻ cũng phát triển và khả năng cảm nhận nhanh nhạy chính xác, tư duy của trẻ có điều kiện phát triển , giúp trẻ làm giàu vốn từ, phát âm chính xác và diễn đạt mạch lạc những suy nghĩ của mình. Từ đó trẻ biết cảm nhận, rung động trước cái đẹp, cái hay của cuộc sống môi trường xung quanh và giáo dục trẻ có thái độ đúng đắn với sự vật hiện tượng quanh trẻ.
Là giáo viên mầm non, việc thực hiện tốt những vấn đế trên là nhiệm vụ hàng đầu, bản thân tôi suy nghĩ làm thế nào để dạy tốt môn khám phá khoa học giúp các cháu hứng thú tích cực tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh khi tôi hướng dẫn các cháu, nhất là tìm hiểu khám phá về “thế giới động vật”, giúp cho các cháu có thái độ tốt với các con vật: Quan tâm chăm sóc tạo điều kiện cho các con vật sinh sống, bảo vệ môi trường sống cho các con vật ….
II.THỰC TRANG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI:
1.Thuận lợi :
- Tôi được dạy trong môi trường khang trang đạt chuẩn Quốc gia đủ điều kiện về yêu cầu cơ sở vật chất môi trường cho các cháu học tập quan sát :
+ Có nuôi các con vật gần gũi : chó, mèo, thỏ, hồ cá, bể cá cho các cháu quan sát.
+ Phương tiện nghe nhìn cho các lớp : Ti vi, đầu đĩa, máy cassette, băng hình, đĩa hình về thế giới động vật.
- Được sự quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện của ban giám hiệu và chị em đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi dạy tốt chủ đề thế giới động vật.
- Bản thân nhiều năm dạy các cháu 3-4 tuổi nên tôi hiểu rõ tâm lý, cá tính và khả năng nhận thức của các cháu. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những khó khăn.
2, Khó khăn :
- Phần lớn các cháu lớp tôi đều mới được đi học chưa quen nề nếp còn nhút nhát thụ động chưa quen hoạt động học tập, hoạt động tập thể.
- Thêm vào đó sức khỏe của các cháu không đều có cháu suy dinh dưỡng, cháu béo phì. Sức khỏe không đồng đều nên khi học tập cũng hạn chế tiếp thu, hứng thú quan tâm đến các con vật.
- Phụ huynh phần lớn là nông dân, buôn bán ít quan tâm đến việc giáo dục con cái, họ còn có quan điểm lạc hậu “ Trẻ con đến trường mẫu giáo chỉ để cô giữ hộ, để chơi, chứ biết gì học với hành” Họ ít quan tâm đến việc trò chuyện, gợi hỏi, đố con…, giúp con tìm hiểu khám phá về thế giới động vật, dạy con biết thêm những điều mới lạ hay giải đáp thắc mắc cho con về các con vật….Họ không nhiệt tình khi tham gia các buổi họp phụ huynh … Dẫn đền nhiều cháu thờ ơ ít quan tâm đến xung quanh, đến các con vật gần gũi. Kiến thức ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, sử dụng từ chưa chính xác. Do đó khả năng cảm nhận, đánh giá, ghi nhớ … các đối tượng ( con vật) quan sát tiếp xúc của trẻ còn hạn chế .
3. Số liệu thống kê:
- Mức độ tập trung chú ý của trẻ khi quan sát con vật : 52,5%
- Mức độ nhận thức của trẻ về con vật ( Biết gọi tên kể tên về con vật nhận xét về con vật) : 42,5%
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
- Theo luật giáo dục : Giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tòan diện có đạo đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp- và mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển tòan diện về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ ngôn ngữ. Hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách . Do vậy việc cho trẻ tiếp xúc với môi trường xung quang là vô cùng quan trọng và cần thiết.
- Theo sách giáo dục mầm non tập 1 ( Nhà xuất bản ĐHSP) những quan diểm về giáo dục mầm non cho rằng :
+ Trẻ em là một nhân cách đang hình thành và hoàn thiện dần với tốc độ phát triển rất nhanh ở lứa tuổi mầm non. Vì thế một mặt phải tôn trọng trẻ em, mặt khác phải tổ chức cho trẻ học, tiếp thu phù hợp với lứa tuổi để trẻ được phát triển đầy đủ nhân cách .
+ Ax macarenco Nhà giáo dục học Xô Viết vĩ đại những năm 30-40 của thế kỷ 20 này đã từng nói rằng : ‘ Những gì mà trẻ em không có đựoc trước 5 tuổi thì sau này rất khó hình thành nhân cách và sự hình thành nhân cách ban đầu bị lệch lạc thì sau này giáo dục lại rất khó khăn.” Bởi thế phương pháp giáo dục chủ yếu trong ngành mầm non đối với trẻ 3-6 tuổi là vui chơi và là họat động chủ đạo ,với phương thức “ Học mà chơi, chơi mà học. Do đó đòi hỏi cô giáo mầm non phải có tri thức và hiểu biết cách tổ chức khoa học hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo với phương châm “ Học mà chơi, chơi mà học” mà trẻ lứa tuổi này sống chủ yếu bằng đời sống tình cảm với sự xúc cảm rất cao trước mọi tác động của môi trường. Vì thế cần coi trọng việc giáo dục trẻ bằng tình cảm, bằng tấm gương của người lớn, bằng tác động của thế giới xung quanh trẻ. Chính vì thế việc cho trẻ tiếp xúc làm quen với thế giới động vật cũng rất là quan trọng.
Từ những quan điểm trên tôi nhận thấy cần phải làm thế nào để giúp các cháu lớp mình có những kiến thức hiểu biết về xung quanh, nhất là thế giới động vật. Giúp các cháu quan tâm thân thiện với các con vật và có ý thức chăm sóc bảo vệ các con vật , giúp cho phụ huynh hiều được tầm quan trọng của việc cho con em họ đến trường mầm non và cùng giáo viên cung cấp mở rộng thêm cho con em mình những kiến thức hiểu biết về thế giới động vật giúp phát triển ở trẻ những năng lực quan sát, nhận xét, tư duy và vốn sống thực tiễn của các cháu.
2. Nội dung , biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
- Để giúp trẻ hứng thú khám phá tìm hiểu thế giới động vật chính xác và cung cấp thêm nhiều hiểu biết cho các cháu vế thế giới động vật. tôi đã tìm tòi tham khảo tài liệu, sách báo,sọan giảng vận dụng nhiều hình thức đổi mới vào các họat động tìm hiểu khám phá thế giới động vật cho các cháu với những biện pháp sau :
* Chuẩn bị đồ dùng học cụ phục vụ cho tiết học :
Ở trẻ 3-4 tuổi tư duy trực quan hình tượng phát triển rất mạnh. Đó cũng là điều kiện thuận lợi để giúp trẻ tìm hiểu khám phá thế giới động vật được cụ thể hơn. Dựa trên đặc điểm này tôi luôn tạo điều kiện cho các cháu được tiếp xúc quan sát những động vật:
- Quan sát trực tiếp : các con vật nuôi, cá kiểng, côn trùng ….
- Quan sát bằng băng hình trên Tivi, máy vi tính: Hình ảnh họat động, sinh sản , nơi sống của các con vật.
- Các con thú nhựa, thú nhồi bông, rối….
- Các hình ảnh của các con vật : giá súc, gia cầm, thú rừng, côn trùng , chim, cá….
- Các đồ dùng đồ chơi tự tạo làm thành các con vật.
Ngòai những yêu cầu về giáo dục thẩm mỹ, tôi cũng chú ý đến yêu cầu về vệ sinh an tòan cho các cháu khi quan sát. Bên cạnh đó các con vật làm từ rối, thú nhối bông, đồ chơi.v.v..phải có dáng vẻ ngộ nghĩnh gần gũi với các cháu, không quá cầu kỳ và gây hứng thú thu hút các cháu, các đồ chơi chuyển động được càng tốt.
Biện pháp 1 : Tồ chức cho trẻ quan sát .
Quan sát một phương pháp quan trọng được sử dụng rộng rãi trong quá trình hướng dẫn trẻ khám phá con vật, đặc biệt là rất phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ. Nó giúp trẻ rèn luyện, phát triển tính ham hiểu biết, năng lực quan sác của trẻ. Củng cố và làm chính xác hơn những biểu tượng đã có. Quan sát được tiến hành một cách có mục đích, có kế họach. Bởi thế tùy vào từng đối tượng quan sát và đặc điểm những tâm lý của trẻ tôi chọn số lượng con vật cho trẻ quan sát trên tiết học sao cho phù hợp ( Ví dụ : Trẻ 3-4 tuổi lớp tôi mỗi lần quan sát trên tiết học chỉ 3-5 con vật). Và quan sát các con vật chỉ nên quan sát ngắn và cần hình dung trước cách thức tổ chức quan sát sao cho gây hứng thú ở trẻ.
+ Đối tượng quan sát nên đặt chổ nào cho phù hợp để tất cả trẻ đều nhìn rõ và trẻ dễ dàng hành động, họat động với đối tượng ( Ví dụ : sờ, vuốt ve, cho động vật ăn…)
+ Bên cạnh đó tôi phái hình dung trước những tình huống bất lợi có thể xảy ra. Con vật chạy mất hay các cháu đặt những câu hỏi khó trả lời…
Hướng trẻ quan sát vào đối tượng. tùy vào tình hình thực tế, tôi sử dụng một hay hai thủ thuật nhằm kích thích hứng thú quan sát của trẻ.
Ví dụ : Nghe tiếng kêu của con vật, đặt câu đố vế con vật hay chơi trò chơi, hát hay gây tình huống bất ngờ gây trẻ chú ý
- Ví dụ : Cho cháu sờ vuốt lông con vật, xem con vật ăn… Các cháu giả dáng đi con vật , tiếng kêu của con vật …- Khi các cháu đang hứng thú quan sát tôi đưa đối tượng ra trước mặt cháu. Sau đó tổ chức cho cháu thao tác hay họat động.
- Sau khi quan sát, thao tác họat động với đối tượng, tôi chỉ tay vào đối tượng (các bộ phận) và hỏi các cháu yêu cầu các cháu gọi tên đối tượng, tên một vài bộ phận, màu sắc của đối tượng ( con vật đó)
- Ví dụ : Đây là con gì? Nó đang làm gì vậy? Nó ăn như thế nào? Đầu của voi đâu? Nó có đuôi không? Nó có mấy chân? Chân nó để làm gì? Nó ăn thức ăn gì? Nó sống ở đâu?
Nhìn chung những câu hỏi hướng dẫn trẻ quan sát con vật phải phục vụ mục đích, yêu cầu đã xác định. Đó là những câu hỏi giúp trẻ ở lứa tuổi này phát hiện ra những điều mới lạ của con vật. Có những câu hỏi yêu cầu trẻ phải so sánh, phân tích, tổng hợp.
- Ví dụ: Con thấy mỏ gà và mỏ vịt thế nào? Con có nhận xét gì về gà mẹ và gà con?
- Về trình tự hướng dẫn trẻ quan sát không nên máy móc, cần phái dựa vào sở thích của trẻ, trẻ thích cái gì nhất thì nên cho trẻ quan sát cái đó trước. sau đó đối với mỗi con vật và mỗi lứa tuổi trẻ tôi tổ chức quan sát thế nàocho hợp lý. Bên cạnh đó trình tự quan sát con vật còn phụ thuộc vào hình thức tiến hành. Đó là tiết học hay buổi dạo chơi, tham quan vườn thú …
Sau khi quan sát xong, nên tổ chức cho cháu trò truyện hoặc đàm thọai về các con vật vừa quan sát.
* Các hình thức quan sát khác:
- a. Sử dụng hình ảnh:
Tôi sử dụng tranh ảnh cở 40x60 treo trên bảng. Tôi dùng que chỉ và đặt các câu hỏi để hướng cháu tri giác các câu hỏi có tác dụng kích thích hứng thú quan sát và rèn luyện tư duy cho cháu.
- Ví dụ : Các cháu nhìn thấy những gì trong bức tranh này? Còn gì nữa? Bức tranh tranh này vẽ những con vật sống ở dâu? Tại sao con biết bức tranh này vẽ các con vật sống trong rừng?
b.Sử dụng mô hình:
Mô hình có thể làm từ bìa cứng, gổ, nhựa hay bằng các đồ chơi con vật tự tạo của cô và cháu. Mô hình phải mang tính tổng hợp sinh động hấp dẫn cháu. Cháu có thể đứng xung quanh mô hình và tôi hướng dẫn cháu tri giá đối tượng.
c.Sử dụng phim (ti vi):
Sử dụng phim ảnh, đầu đĩa thì nội dung phục vụ chủ đề nào đó của lĩnh vực làm quen với môi trường xung quanh.
Ví dụ: Họat động của động vật dưới nước, trong rừng hay sự sinh sản lớn lên của một con vật nào đó…
Nội dung phim có tác dụng củng cố và mở rộng sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh.Nó cũng có tác dụng tích lũy tri thức cho trẻ để trẻ có thể đàm thọai hoặc hiểu những điều tôi giải thích.
Trẻ ngồi xem phim cách màn hình 2-3 mét, phim phải có nút điều khiển chậm để trẻ dễ tri giác các hình ảnh chuyển động của các con vật. lời thuyết minh của tôi có tính chất chỉ dẫn kích thích sự tập trung chú ý của trẻ, hướng trẻ vào tri giác đối tượng phục vụ vào mục đích yêu cầu đã xác định.
Biện pháp 2 : Tổ chức cho trẻ đàm thọai:
Đàm thoại là quá trình tổ chức hỏi đáp giữa tôi với các cháu một cách có mục đích và kế họach.
Trong quá trình hỏi đáp nếu không có vài biện pháp, thủ thuật xen kẽ ( xem hình ảnh, giải thích, đọc thơ, chơi trò chơi ngắn…) thì không khí đàm thọai sẽ trở nên căng thẳng.
* Các hình thức đàm thọai :
- Hình thức đàm thoại trong lúc quan sát: Tôi dùng hệ thống câu hỏi trong quá trình quan sát ( câu hỏi có khi là biện pháp vì nó có tác dụng hướng dẫn trẻ quan sát
Ví dụ: Con gì đây ? Nó đang làm gì vậy? Chân nó đâu? Nó có mấy chân?...). Những câu hỏi cũng có khi là thủ thuật vì nó có tác dụng kích thích sự tập trung chú ý tri giác đối tượng của trẻ ( Ví dụ: Tiếng con gì kêu vậy? Nó kêu như thế nào?). Đôi khi câu hỏi có tác dụng cho trẻ tri giác đối tượng kỹ hơn, sâu hơn và phát hiện ra những điều mới lạ của đối tượng ( Ví dụ: Chân vịt đâu? Chân vịt thế nào? Tại sao vịt boi đựơc?...). Đặc biệt có những câu hỏi nhằm rèn luyện và phát triển trí thông minh của trẻ ( Ví dụ: Gà và vịt con nào biết bơi, tại sao con biết? )
- Hình thức đàm thọai sau khi quan sát: Tôi cần hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết đối với hình thức đàm thọai sau khi quan sát, mặc dù trong quá trình quan sát tôi đã sử dụng câu hỏi đàm thọai với cháu ( Cháu có thể trả lời hay không trả lời câu hỏi này). Việc quan sát con vật thông qua câu hỏi đàm thọai còn cò nhiều nhược điểm vì trẻ ở lứa tuổi này: “ Mau nhớ nhưng lại hay quen”. Sự hiểu biết của trẻ thông qua quan sát con vật còn nhiều hạn chế về nội dung. Việc giáo dục thẩm mỹ , đạo đức cho trẻ thông qua quan sát con vật cũng còn hạn hẹp và khó thực hiện. Đặc biệt quà trình rèn luyện và phát triển lời nói mạch lạc cjo trẻ trong lúc quan sát con vật còn nhiều thiếu sót. Bởi thế tổ chức cho trẻ đàm thọai sau quan sát có tác dụng tăng cường trí nhớ, củng cố và làm sâu sắc hơn những điều vừa quan sát được. Hệ thống lại những tri thức trẻ vừa lĩnh hội được trong lúc quan sát, mở rộng sự hiểu biết về đối tượng, giáo dục đạo đức thẩm mỹ sâu sắc hơn. Câu hỏi đặt lúc này phải nhẹ nhàng đơn giản và lúc này đối tượng ( con vật) không còn trước mặt trẻ mà trẻ chỉ ngồi gần cô đàm thọai, không khí giữa cô và cháu gần gũi thân mật và cởi mở. Hệ thống câu hỏi nhằm:
+ Củng cố những nội dung chính của quá trình quan sát.
+ Mở rộng sự hiểu biết của trẻ về con vật vừa quan sát.
+ Rèn luyện và phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ.
+ Giáo dục khiếu thẩm mỹ, phẩm chất đạo đức.
Ví dụ: - Một số con vật nuôi trong gia đình ( gia cầm)
- Các cháu vừa xem những con vật gì vậy?
- Những con vật này có mấy chân?
- Những con vật này ăn như thế nào?
- Những con vật này sống ở đâu ?
- Hãy kể những con vật có hai chân sống trong gia đình?
- Những con vật có hai chân đẻ trứng gọi chung là gì?
- Các cháu có thích những con vật này không?
- Các cháu nuôi chúng như thế nào?.....
* Các hình thức dùng lời nói:
Trò chuyện: Tổ chức trò chuyện với trẻ về các con vật ngòai giờ học ( đón trẻ , họat động ngòai trời, sinh họat chiều, chơi tự do….). Các cháu trò chuyện theo nhóm với nhau.
Giải thích : Là biện pháp cần thiết đối với tất cả các hình thức cho trẻ khám phá môi trường xung quanh. Tôi thường dùng lời nói ngắn gọn dể hiểu để giải thích cho các cháu hiểu sâu sắc hơn về con vật quan sát.
Ví dụ: Tại sao mèo đi rất nhẹ khi rình bắt chuột? Vì dưới chân mèo có đệm thịt….
Độc thọai : Rèn cho cháu tự trình bày suy nghĩ sự hiểu biết của mình về con vật nào đó. Sử dụng biện pháp này nhằm hình thức củng cố kiến thức và phát triển lời nói mạch lạc cho cháu, có tác dụng phát huy tính tích cực học tập, lao động, vui chơi của các cháu.
Ví dụ: Cô cho cháu chọn một con vật cháu thích và yêu cầu cháu tả về con vật cháu chọn.
Sử dụng tác phẩm văn học trẻ em: Tôi thường sưu tầm các bài thơ, câu chuyện, đồng dao, câu đố… về các con vật để lồng ghép vào bài dạy cho tiết học thêm sinh động, giảm bớt mệt mỏi và gây hứng thú, chú ý cho các cháu hơn.
Ví dụ: Quan sát gà con xong cháu đọc bài thơ “ Đàn gà con” bày tỏ sự yêu mến của các cháu với đàn gà con.
- Sử dụng các bản nhạc bài hát, vận động: Một số bài hát vui nhộn và các điệu múa có nội dung về các con vật với mục đích sử dụng trong tiết học và các họat động dạo chơi… nhằm gây hứng thú, phấn chấn cho trẻ.
Ví dụ: Cháu hát vận động bài “ Vịt bơi trong ao” vừa cũng cố hiểu biết về con vịt và các vận động của nó rất hứng thú.
* Biện pháp 3 : Tổ chức các trò chơi :
Tổ chức trò chơi cho trẻ một cách có mục đích và kế hoạch nhằm phục vụ mục đích cho trẻ làm quen khám phá môi trường xung quanh, có tác dụng củng cố tri thức, mở rộng sự hiểu biết và rèn một số kỹ năng ghi nhớ, so sánh, phân tích cho trẻ :
- Trò chơi học tập:Về đúng nhà các con vật ,tìm đuôi cho con vật, ghép hình con vật (bộ đồ chơi đính kèm ) ,bắt chước tiếng kêu,cách vận động các con vật có thể vận dụng trong tiết học, dạo chơi, chơi tự do
- Trò chơi sáng tạo : Thường sử dụng trong hoạt động góc (chơi trại chăn nuôi, cửa hàng bán các con vật ,đi xem xiết…)
- Trò chơi xây dựng : Xây trại chăn nuôi, xây vườn bách thú, xây hồ cá… các cháu xây biết chọn các con vật để bỏ vào nuôi và gọi đúng tên , đặc điểm, nơi họat động.
- Trò chơi vận động : nhằm củng cố sự hiểu biết của trẻ về tính vận động của các con vật ( VD: Mèo đuổi chuột, cưỡi ngựa, bịt mắt bắt dê, chim bay cò bay…).
Ngòai ra tôi cũng thường cải biên các trò chơi cho cháu chơi để các trò chơi phù hợp với nội dung và hình thức cho trẻ làm quen với các con vật.
* Biện pháp 4 : Tổ chức tích hợp họat động tạo hình:
- Vẽ ( nặn, xé, dán..) sáng tạo : sau khi cho các cháu học quan sát các con vật, cô kích thích hứng thú sáng tạo của trẻ bấng cách yêu cầu trẻ vẽ (nặn, xé, dán…) lại những con vật cháu thích, cô động viên kích lệ trẻ tích cực họat động sáng tạo.
- Vẽ ( nặn) bổ sung: Tôi vẽ (nặn) trước 1-2 con vật, yêu cầu cháu vẽ ( nặn) thêm những con vật thuộc nhóm đó, hay vẽ bổ sung cho đúng.
Ví dụ : Cô vẽ sẳn con gà trồng có 2 chân, vẻ vẽ bổ sung những con vật khác có 2 chân ( Vịt, gà con, ngỗng…) Hay cô vẽ sẳn con vật còn thiết bộ phận, các cháu lên vẽ tiếp cho hòan chỉnh ( vẽ thiếu mỏ, chân vịt – cháu vẽ thêm).
* Biện pháp 5 : Phối hợp với phụ huynh:
Để làm tốt các biện pháp trên, ngòai sự nỗ lực của bản thân còn rất cần đến sự đồng tình, ủnh hộ cả về tinh thần lẫn vật chất của phụ huynh :
- Tuyên truyền kiến thức nội dung học tập của các cháu lên bảng tuyên truyền và những nội dung cần sự hỗ trợ của phụ huynh.
- Gặp gỡ trao đổi trực tiếp với phụ huynh về vấn đề nhận thức của các cháu về thế giới động vật để phụ huynh tạo điều kiện cho các cháu được làm quen thêm.
Ví dụ : Sau mỗi đợt tham quan thảo cầm viên, trò chuyện về con vật nuôi trong gia đình, phụ huynh cùng cô giải đáp những thắc mắc cho con, cũng như khuyến khích con tìm tòi, khám phá, nhận xét hoạt động, tập tính của các con vật ... giúp con mình có những kiến thức vững chắc về thế giới động vật.
- Vận động sự ủng hộ của phụ huynh bằng vật chất : Các băng đĩa hình về thế giới động vật, các hình ảnh họa báo các con vật, sách truyện về thế giới động vật trước khi học chủ đề ... để tăng thêm những phương tiện, học cụ cho các cháu được học hỏi, khám phá.
Ví dụ : Cô cùng với cháu làm Album về thế giới động vật : Những con vật nuôi trong gia đình, những động vật sống trong rừng, những động vật sống dưới nước (những loài cá) ... từ các họa báo, hình ảnh phụ huynh đóng góp.
- Cùng phụ huynh rèn thêm cho những cháu còn yếu, giúp những cháu này hiểu biết nhiều hơn, không còn lúng túng bỡ ngỡ khi trả lời câu hỏi của cô và bạn.
Ví dụ : Tôi trò chuyện với phụ huynh về cháu, cùng phụ huynh khích lệ động viên cháu trong học tập và thường xuyên giải thích cho cháu hiểu nhiều hơn về con vật mà cháu chưa hiểu hết.
* Biện pháp 6 : Bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ
Để giảng dạy đạt kết quả tốt chủ đề thế giới động vật thì bản thân tôi phải luôn luôn tự bồi dưỡng cho mình những kiến thức khoa học về thế giới động vật (đời sống, tập tính, hoạt động của các con vật).
- Qua tham khảo tài liệu giảng dạy, sách báo, tự điểm thế giới động vật ... để có những kiến thức hiểu biết rộng về các loại động vật nuôi, động vật sống trong rừng, động vật sống dưới nước, côn trùng ...
- Nghiên cứu sưu tầm, sáng tác ra các bài thơ, câu đố, đồng dao, bài hát, trò chơi về thế giới động vật để lồng ghép vào trong tiết dạy, hoạt động và vui chơi cho các cháu.
- Dự giờ học tập kinh nghiệm ở các đồng nghiệp bạn các hình thức tổ chức cho các cháu nhằm thu hút hứng thú tìm tòi khám phá của các cháu về thế giới động vật.
Ví dụ : Tôi học hỏi cách truyền đạt, cách hướng dẫn tổ chức cho các cháu quan sát, thủ thuật thu hút sự chú ý của các cháu khi đàm thoại, trò chuyện với cô ...
IV. KẾT QUẢ :
Dựa vào những biện pháp trên để giảng dạy hướng dẫn các cháu làm quen với thế giới động vật, sau một thời gian thực hiện đến nay tôi đã được một số kết quả sau.
- Mức độ tập trung chú ý của các cháu khi quan sát con vật đạt :87,5% các cháu trong lớp tham gia họat động tích cực hơn so với lúc đầu là 35%.
- Mức độ nhận thức của trẻ về thế giới động vật ( các con vật) đạt 80%. Cao hơn so với lúc ban đầu là 37,5%.
- Khả năng tìm tòi sáng tạo phát hiện những cái mới của các con vật ở trẻ cao.
- Các cháu trong lớp nhận thức tương đối đều, các cháu tích cực mạnh dạn, nhanh nhẹn biết nhận xét, phân tích, so sánh các con vật với nhau và biết yêu quí các con vật nuôi, có ý thức bảo vệ các con thú.
- Đa số phụ huynh đã hiểu được một số yêu cầu và tầm quan trọng của môn học. Họ tích cực hổ trợ cho lớp học những hình ảnh, băng hình về thế giới động vật ( Mua thêm nhiều lọai cá thả vào hồ cá của lớp, của trường cho các cháu quan sát) và họ còn chú trọng đến việc chuyện trò, khích lệ con tìm tòi khám phá về thế giới động vật, tổ chức cho con đi tham quan sở thú, chuồng trại chăn nuôi của gia đình.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua thời gian giảng dạy và hướng dẫn các cháu chủ đề thế giới động vật và chuyên đề khám phá khoa học dựa vào các kết quả trên, đã đạt được những kết quả trên, bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau :
- Trước hết giáo viên phải nắm vững kiến thức, phương pháp tổ chức hướng dẫn họat động cho trẻ trên tiết học cũng như các hoạt động khác về thế giới động vật :
+ Cô hiểu và nắm được tâm lý, trình độ nhận thức của từng cháu để đặt câu hỏi và khuyến khích cháu tích cực hoạt động.
+ Tổ chức các hoạt động linh hoạt nhẹ nhàng, lôi cuốn thu hút sự tập trung chú ý, hứng thú của các cháu ...
- Bản thân giáo viên phải biết vận dụng điều kiện thực tế để tổ chức cho trẻ hoạt động học tập về thế giới động vật như : Môi trường, sân vườn, tivi, băng hình ...
- Bản thân giáo viên phải biết nâng cấp đồ dùng, đồ chơi của lớp để làm sao cho các trẻ chơi, hoạt động không bị nhàm chán mà trẻ luôn được tìm tòi khám phá cái mới.
- Giáo viên phải có sự phối hợp tốt giữa nhà trường và phụ huynh để tạo mọi điều kiện tốt nhất cho các cháu được hoạt động học tập, tìm hiểu về thế giới động vật.
- Tổ chức lồng ghép các bộ môn linh hoạt nhẹ nhàng vào tất cả các hoạt động trong ngày cho trẻ, tạo cảm giác cho trẻ lúc nào cũng muốn hoạt động khám phá tìm hiểu về thế giới động vật.
Từ đó nghiên cứu sọan giáo án tốt, tổ chức tiết học hình thức nhẹ nhàng linh họat lôi cuốn sự tập trung chú ý của các cháu vào họat động.
- Tác phong cô nhẹ nhàng, gần gũi, yêu thương, hiểu biết tâm lý các cháu, trình độ của từng cháu để đặt câu hỏi khuyến khích cháu tích cực họat động.
- Trong họat động cô luôn linh họat tạo tình huống thu hút sự tập trung chú ý hứng thú của các cháu.
VI. KẾT LUẬN :
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu và thực hành tổ chức các hoạt động cho các cháu về thế giới động vật, tôi rút ra được một số kết luận sau :
Để các cháu 3 – 4 tuổi khám phá hết sự đa dạng phong phú của thế giới xung quanh giúp các cháu có những biểu tượng đúng đắn về các sự vật hiện tượng, cung cấp cho các cháu những tri thức đơn giản về thế giới xung quanh, giúp các cháu có thái độ tốt với các con vật : Biết quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện cho các con vật sinh sống, bảo vệ môi trường sống của các con vật thì :
- Bản thân giáo viên phải luôn cố gắng rèn luyện nâng cao kiến thức hiểu biết khoa học về môi trường xung quanh ( thế giới động vật) học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, dự giờ, sách báo…làm giàu thêm vốn kinh nghiệm bản thân.
- Cần phải tổ chức cho trẻ tham gia tích cực vào tất cả các hoạt động trong ngày, khuyến khích trẻ tìm tòi khám phá cùng bạn bè, trẻ sẽ cảm thấy gắn bó với trường lớp, quan tâm đến mọi người, đến các con vật và có thái độ tốt với các con vật và có ý thức chăm sóc bảo vệ con vật và bảo vệ môi trường sống của các con vật.
- Cần tăng cường hơn nữa việc trang bị cho trường lớp cơ sở vật chất để các cháu vui chơi học tập.
+ Có vườn thú : Nuôi các con vật gần gũi : Thỏ, gà, sóc, chó mèo, hồ cá, bể cá….
+ Có đầy đủ phương tiện nghe nhìn : máy vi tính, tivi, đầu đĩa về các chương trình thế giới động vật, các bài tập trò chơi về động vật cho các cháu xem xét về hình dạng, cá tính họat động, sinh sống sinh sản của các con vật được rõ hơn ( các thú rừng, côn trùng…) mà các cháu khó có thể quan sát được các con vật thật .
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Giáo dục mầm non _ Đào Thanh Âm _ Nhà xuất bản Đại Học Sư Phạm năm 2002
- Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh _ Lê Thị Ninh _ Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội năm 2005
- Tâm lý học trẻ em _Ngô Công Hòan _ Trường Cao Đẳng Sư Phạm Nhà Trẻ Mẫu Giáo TWI năm 1995
- Cơ sở phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh _ Lê Thị Ninh _ Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội năm 1995.
- Hướng dẫn thực hiện chương trình đổi mới hình thức tổ chức họat động giáo dục trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi _ Tiến sĩ Phạm Thị Mai Chi _ Bộ giáo dục đào tạo năm 2003.
- Hiệu quả của việc sử dụng vật thật kết hợp với hệ thống câu hỏi trong việc tổ chức tiết học cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh _ Nguyễn Thị Hà _ Khóa luận tốt nghiệp Đại Học năm 2000
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi rút ra từ thực tế qua thời gian thực hiện chủ đề Thế giới động vật. Tôi rất mong nhận được những ý kiến nhận xét đóng góp của Ban Giám Hiệu và các chị em đồng nghiệp.
Xin chân thành cám ơn