A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
1. Lý do lý luận:
Văn học là suối nguồn của tri thức, là kinh nghiệm sống mà con người cần tiếp thu và phát triển. Văn học có vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục trẻ em mầm non nói riêng, nó là phương tiện để giáo dục con người.
Trong chương trình văn học Việt Nam truyện là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với trẻ mầm non. Truyện giúp các em hiểu được cuộc sống hiện thực của cha ông ta. Truyện có ý nghĩa giáo dục lớn, giáo dục về tư tưởng tình cảm, trân trọng những con người lao động, yêu quê hương đất nước, sống trung thực, chăm chỉ, ghét cái ác, yêu cái thiện, ở hiền gặp lành. Truyện được trẻ em rất yêu thích và nó góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Những câu chuyện cổ tích có một vai trò rõ ràng trong việc khơi mở trí tưởng tượng của trẻ nhỏ, chúng cũng có ích bấy nhiêu khi giúp trẻ nhỏ đối mặt với các lo sợ mà các bé chưa thể diễn đạt được. Nhà nghiên cứu nổi tiếng về tâm lý học trẻ em Bruno Bettelheim tin rằng những câu chuyện cổ tích đóng vai trò quan trọng với sự phát triển của trẻ nhỏ bởi nhân vật chính trong các câu chuyện - nhiều trong số đó chính là trẻ em - giống như 1 hình tượng mô phỏng khả năng vượt qua hay thậm chí dành được thành công lớn khi đối mặt với những tình huống khó khăn.
Kết quả kiểm nghiệm tốt nhất cho sự thành công của một câu chuyện cho trẻ em không phải là chúng có những bài học sâu xa không hay chúng có nguồn gốc từ đâu, mà là liệu chúng có làm trẻ thích thú và đòi được nghe thêm nữa hay không. Hầu hết các chuyện cổ tích đem lại cho trẻ sự thích thú, dễ chịu, khuyến khích trí tưởng tượng của chúng theo những cách riêng mà những tác giả hiện đại chỉ có thể mơ ước đến chứ không làm nổi. Thế cho nên tôi đã chọn đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỂ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI NGHE CHUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM THEO HƯỚNG TÍCH HỢP
2. Lý do thực tiễn:
Hiện nay trong chương trình giáo dục mâm non, tác phẩm “Tấm Cám” đã được thực hiện, nhà trường và giáo viên mầm non đã lên tiết dạy trẻ. Tuy nhiên theo như bản thân tôi thấy các phương pháp dạy trẻ của giáo viên chưa đạt kết quả cao. Nên tôi chọn để tài: “ Một số biện pháp kể cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi nghe chuyện cổ tích Tấm Cám theo hường tích hợp” nghiên cứu và hi vọng góp tiếng nói nhỏ của mình vào thực tiễn dạy học để cho trẻ nghe chuyện đạt kết quả cao hơn.
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN KỂ CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI NGHE TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM.
I. Mục đích điều tra:
Để có cơ sở nghiên cứu các biện pháp kể truyện cho trẻ nghe. Chúng tôi tiến hành điều tra nhắm đánh giá thực trạng chung của việc kể cho trẻ 5 – 6 tuổi nghe truyện cổ tích Tấm Cám theo hướng tích hợp ở một số trường mầm non. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp.
II. Địa bàn điều tra:
Lớp mẫu giáo lớn A2 trường mầm non
III. Nội dung điều tra:
1. Điều tra, thăm dò nhận thức, ý kiến của giáo viên khi thực hiện tiết học kể cho trẻ 5 – 6 tuổi nghe truyện cổ tích Tầm Cám
2. Điều tra soạn giáo án của giáo viên
3. Dự giờ giáo viên
4. Quan sát trò chuyện với trẻ
IV. Phương pháp điều tra
1. Để thăm dò, dùng phương án kép
2. Dự giờ quan sát sư phạm: Xem cách thức tổ chức
3. Ghi chép dự giờ và phân tích kết quả.
4. Trao đổi trò chuyện đàm thoại với trẻ.
V. Phân tích kết quả điều tra:
1. Trả lời phiếu :
Việc thăm dò ý kiến bằng phiếu điều tra nhằm mục đích tìm hiểu nhận thức và đánh giá của giáo viên mầm non về vấn đề kể truyện cho trẻ nghe.
Khi điều tra tôi sử dụng hệ thống câu hỏi sau?
- Chị có thích tổ chức hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe không? Vì sao?
- Chị có cảm nhận gì về truyện cổ tích Tấm Cám? Truyện có phù hợp với trẻ 5 – 6 tuổi không?
- Chị đã chuẩn bị những gì khi kể truyện cổ tích cho trẻ nghe.
- Chị đã sự dụng những phương pháp gì, biện pháp gì khi tổ chức tiết học này?
- Chị gặp những khó khăn và thuận lợi gì khi tổ chức tiết học này?
- Chị có đọc, nghiên cứu tài liệu gì để xây dựng tiết học kể truyện cổ tích cho trẻ nghe không?
- Chị có đề xuất gì không?
Hệ thống câu hỏi này tôi đã điều tra trên 20 giáo viên đang trực tiếp dạy lớp mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi thuộc các trường mầm non quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Kết quả:
Nói chung về nhận thức và đánh giá của giáo viên mầm non vấn đề này tương đối đồng nhất, tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ nhất định.
- Với câu hỏi 1: 20/20 (100%) giáo viên đều đã đưa ra cách hiểu của mình về truyện cổ tích. Giáo viên đã đưa ra được đặc điểm đặc trưng của truyện cổ tích là truyện có từ xa xưa, có mở đầu và kết thúc thường có hậu: Người nghèo khó chăm chỉ, hiền lành được hạnh phúc.
- Với câu hỏi 2: 18/20 (90%) giáo viên thích kể truyện cho trẻ nghe vì trẻ chăm chú lắng nghe cô kể chuyện. 2/20 (10%) giáo viên không thích kể chuyện cho trẻ nghe vì lý do chủ quan của bản thân như: Kể chuyện cho trẻ nghe cô phải có giọng kể tốt kết hợp với yếu tố hình thể khác mà bản thân cô giáo không làm được điều đó.
- Với câu hỏi 3: 20/20 (100%) giáo viên cho rằng phù hợp với trẻ 5 – 6 tuổi
- Vơi câu hỏi 4: 20/20 (100%) giáo viên cho rằng để tiết học đạt kết quả cao cô giáo cần thuộc truyện, hiểu nội dung truyện, chuẩn bị giáo án, tìm mục đích yêu cầu của bài và chuẩn bị đồ dùng dạy học. Nhìn chung giáo viên đã xác định được công việc chuẩn bị cho tiết dạy nhưng chưa ai nhắc đến việc giáo viên cần phải tìm hiểu tư tưởng chủ đề, thể loại truyện gì? Ngoài ra để tiết học được hấp dẫn trẻ không thấy nhàm chán khi phải nghe lại nhiều lần thì giáo viên phải chuẩn bị cả hình thức biện pháp sẽ áp dụng thực hiện tư thế khi học. Tất cả những điều này cần phải chuẩn bị từ trước.
- Với câu hỏi 5: 20/20 giáo viên áp dụng các phương pháp:
Phương pháp trực quan.
Phương pháp đọc kể diễn cảm.
Phương pháp đàm thoại, trao đổi.
Tất cả các giáo viên khi được hỏi câu này đều xác định được phương pháp cơ bản. Tuy nhiên đây chỉ là phương pháp chung, chỉ có 12% (60%) giáo viên chỉ ra được đâu là phương pháp quan trọng nhất, đó là phương pháp đọc kể diễn cảm.
Qua điều tra này ta có thể nhận biết được rằng giáo viên vẫn còn chưa nắm rõ đâu là phương pháp, biện pháp và phương pháp quan trọng nhất khi tiến hành thực hiện mỗi tiết học cụ thể.
- Với câu hỏi 6:
Thuận lợi:
18/20 (90%) giáo viên cho rằng kể chuyện cổ tích nằm trong chủ để có sẵn, có gợi ý thực hiện điều này rất thuận lợi cho giáo viên xây dựng nội dung tích hợp khi dạy trẻ. Và hấu hết các giáo viên cho rằng dạy quá trình đọc kể cho trẻ nghe truyện rất quan trọng, những giáo viên này có giọng đọc kể rất tốt.
Khó khăn:
6/20 (30%) giáo viên cho rằng trẻ dễ bị phân tán mất tập chung bởi nhiều yếu tố như chuyện này trẻ đã được nghe từ rất lâu, ông, bà, bố, mẹ kể nên trẻ không còn hứng thú khi nghe truyện nữa.
12/20 ( 60%) giáo viên cho rằng chuẩn bị tiết dạy ngoài tranh chuyện để thu hút trẻ hơn cần giáo án điện tử power point mất nhiều thời gian và một số cô không thành thạo máy tính.
- Với câu hỏi 7: 19 (95%) giáo viên nhận xét trẻ hứng thú với tiết học.
- Với câu hỏi 8: 20/20 (100%) giáo viên khi được hỏi đến tài liệu đều cho rằng tài liệu cho giáo viên mầm non ít, chủ yếu là cuốn “Chương trình chăm sóc và hướng dẫn thực hiện của Trần Thị Trọng và Phạm Thị Sửu. và cuốn “Hướng dẫn thực hiện chương trình đổi mới của Nhà xuất bản giáo dục.
20/20 (100%) giáo viên đề xuất cần có lớp đào tạo nghiệp vụ về phương pháp luận của bộ môn cho giáo viên mầm non.
2. Việc soạn giáo án của giáo viên
Qua quá trình điều tra việc soạn giáo án của giáo viên tôi thấy một số vấn đề cần lưu ý:
- Trước hết đó là việc xác định mục đích yêu cầu của giờ học: Hầu hết các giáo án đưa ra mục đích yêu cầu chung chung. Chủ yếu giáo viên xác định 3 mục đích yêu cầu sau:
- Trẻ hiểu nội dung truyện.
- Trẻ biết cảm xúc và lắng nghe cô kể chuyện.
- Trẻ hiểu tính cách và ngôn ngữ khác nhau của từng nhân vật.
Trong 20 giáo án thì có 8 giáo án xác định được mục đích yêu cầu sau:
- Trẻ nhận biết tên truyện cổ tích, hiểu nội dung truyện
- Trẻ cảm nhận ý nghĩa nhân hậu của truyện: Người tốt bụng, chăm chỉ
được hưởng hạnh phúc.
- Trẻ trả lời được các câu hỏi cô nêu ra.
- Trẻ nói rõ ràng mạch lạc, biểu cảm, thể hiện cảm xúc biết lắng nghe cô
kể truyện.
- Đồ dùng chuẩn bị: thì giáo viên đều chỉ dùng bộ tranh minh họa có sẵn. Điều đó dẫn đến việc không gây hứng thú dẫn đến sự nhàm chán của trẻ.
- Trong phần nội dung tiết dạy: chưa có giáo án nào nhắc tới việc sử dụng phương pháp, biện pháp gì trong tiết dạy, chưa đề cập đến việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ và chưa đề cập và đặt ra yêu cầu kể chuyện cho trẻ nghe theo hướng tích hợp.
- Các bươc tiến hành: còn tồn tại nhiều vấn đề, nhiều giáo viên áp dụng máy móc tích hợp các môn học nên nội dung chính cần truyền đạt cho trẻ không rõ ràng.
3. Điều tra một số tiết dạy kể cho trẻ nghe truyện:
Tôi điều tra thông qua 2 tiết kể cho trẻ 5 - 6 tuổi nghe chuyện “Tấm Cám” ở 2 lớp khác nhau, kết quả thu được như sau:
a. Lớp A2 Trường mầm non Mai Dịch:
Tôi dự giờ tiết dạy của cô Đinh Thúy Hợi tại lớp mẫu giáo lớn A2 ghi lại được như sau:
- Cô cho trẻ trò chuyện về người thân trong gia đình trẻ
- Cô dẫn dắt vào truyện cổ tích “Tấm Cám”
- Cô kể lần 1: kết hợp nét mặt cử chỉ, điệu bộ.
- Lần 2: Cô sử dụng tranh minh họa.
- Lần 3: Cô kể kết hợp với đàm thoại trích dẫn.
Phần đàm thoại trích dẫn cô đặt các câu hỏi giúp trẻ nhớ nội dung truyện.
Tiết học của cô chỉ là kể cho trẻ nghe truyện, giúp trẻ nhớ nội dung truyện. Chỉ có 15 trẻ biết trả lời các câu hỏi còn những trẻ còn lại chưa trả lời được các câu hỏi cô đặt ra. Trẻ chưa nhắc được các lời thoại trong của nhân vật trong truyện. Trẻ chỉ được nghe mà chưa được trải nghiệm sự hiểu biết của mình. Cô chưa có sự tích hợp trong giờ học, trẻ chưa chú ý lắng nghe. Một số trẻ trả lời được các câu hỏi của cô nhưng chưa nắm được nội dung mà cần có gợi ý của cô. Trong tiết học của cô chưa có sự tích hợp, chưa đảm bảo được yêu cầu, nên trong tiết học không gây hứng thú cho trẻ. Ở tiết học cô chỉ chú ý đến những trẻ chú ý lắng nghe trong giờ học mà chưa chú ý đến những trẻ nhút nhát, cô chưa chú ý đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ và cách thức tổ chức tiết học của mình.
b. Lớp A1 trường mầm non Mai Dịch.
Tại lớp mẫu giáo lớn A1 cô Lê Phương Hằng dạy, tôi đã ghi được như sau:
- Vào bài: Cô tạo tình huống, Chim vàng anh bay vào lớp trò chuyện với các bạn, sau đó cô hỏi trẻ Vàng Anh là nhân vật trong chuyện gì? Muốn biết được Vàng Anh là nhân vật trong chuyện gì chúng ta cùng lắng nghe cô kể chuyện Tấm Cám thì rõ nhé!
- Cô kể chuyện cho trẻ nghe với giọng khoan thai chậm chạp, thể hiện ngữ điệu, nhịp điệu mang tính chữ tình. Sau đó cô đặt câu hỏi đàm thoại với trẻ:
- Tryện có tên là gì?
- Cô Tấm là người như thế nào?
- Mẹ con cô Cám là người như thế nào?
- Con có yêu nhân vật nào nhất? Vì sao?
Cô cho trẻ xem tranh minh họa và đặt câu hỏi đàm thoại với trẻ và giúp trẻ
nhớ lại, tự tin hơn khi trả lời câu hỏi của cô.
Kết thúc giờ học cô cho cả lớp xem diễn dối vở kịch “Tấm Cám”
Tiết học của cô có ưu điểm là giọng kể của cô diễn cảm, cô biết tận dụng thế mạnh của mình để diễn rối cho trẻ. Trẻ lớp này số đông các cháu hứng thú với tiết học và một vài trẻ có sáng tạo trong ngôn ngữ khi trả lời các câu hỏi của cô. Tuy nhiên trẻ vẫn chưa thể hiện được giọng điệu rõ ràng của từng nhân vật trong truyện. Cô giáo đã động viên khuyến khích trẻ kịp thời. Vì vậy mà trẻ đã tự tin hơn trong tiết học và tham gia tích cực trong các hoạt động kể của cô.
6. Kết quả điều tra:
Dựa trên những gì đã thu được qua điều tra bằng phiếu Anket, giáo án của giáo viên, dự giờ, trao đổi với trẻ ở một số trường khác nhau tôi đã rút ra được kết quả sau:
1. Ưu điểm:
Về phía cô:
- Các cô đã chú ý đến việc soạn giáo án cho tiết dạy.
- Chú ý đến khả năng kể chuyện cho trẻ nghe.
- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Các cô đều biết gây hứng thú cho trẻ.
- Cô đã thực hiện tích hợp các môn khác và giờ học.
Về phía trẻ:
- Một số trẻ đã biết thực hiện nhiệm vụ học tập của mình.
- Biết chú ý nghe cô kể chuyện và nghe bạn trả lời các câu hỏi của cô.
- Trẻ đã chú ý và trả lời các câu hỏi.
- Nhìn chung trẻ hứng thú với các hoạt động
2. Nhược điểm:
Về phía cô:
- Các cô soạn giáo án còn chung chung, chủ yếu là soạn dựa vào cuốn “chương trình chăm sóc và hướng dẫn thực hiện”.
- Mục đích yêu cầu của tiết học cũng chung chung., việc soạn giáo án mang tính chất đơn giản rập khuôn chưa cụ thể.
- Chưa nhận thức được cơ sở lý luận của môn học.
- Chưa nhận thức được vai trò của việc nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận cho tiết học của mình nên cô tổ chức các hoạt động này còn sơ sài.
- Trong tiết học cô chưa xác định được cần sử dụng phương pháp biện pháp nào cho phù hợp để giúp trẻ nhận thức tốt.
- Khi cô sử dụng biện pháp đàm thoại thì những câu hỏi mà cô đặt ra có câu đơn giản quá, có câu lại quá sức tư duy của trẻ. Nhìn chung các câu hỏi của cô đặt ra cần có sự gợi mở để trẻ dễ hình dung, tưởng tượng và sống với tác phẩm, với câu truyện mà mình được nghe.
Vì vậy đòi hỏi mỗi giáo viên khi soạn giáo án cần phải có sáng kiến của mình. Các cô mới chú ý đến việc ổn định tổ chức lớp và chú ý đến những trẻ mạnh dạn khi trả lời câu hỏi mà chưa quan tâm đến các cháu nhút nhát khả năng tiếp thu kém.
Về phía trẻ: Phần nhỏ một số trẻ chưa chú ý vào tiết học. Khả năng trả lời các câu hỏi của trẻ còn kém.
3. Nguyên nhân dẫn đến những nhược điểm trên:
Trong quá trình điều tra qua các tiết dạy tôi nhận thấy các cô đểu rơi vào
tình trạng kể thuộc truyện, giọng kể của cô đều đều. Khi kể cử chỉ điệu bộ của cô chưa thể hiện được rõ ràng, ngữ điện của cô chưa phù hợp với diến biến truyện, chưa thể hiện rõ ràng giọng điệu của từng nhân vật trong truyện, cô kể chưa sáng tạo, chưa có sự tích hợp và chưa diễn cảm.
Cô có sử dụng biện pháp đàm thoại những câu hỏi đặt ra chưa phong phú, các cô chưa đặt ra được tầm quan trọng vị trí vai trò của hoạt động văn học nghệ thuật trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Trường mầm non là môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện. Vì trẻ có khả năng tự hoạt động nghệ thuật. Cách thức tổ chức tiết học cũng có vai trò rất lớn trong quá trình giáo dục trẻ. Tổ chức làm sao để phát huy được ở trẻ tính tích cực học tập sáng tạo trong mọi hoạt động, nhất là hoạt động văn học nghệ thuật. Qua việc điều tra sơ bộ thực trạng việc tổ chức cho trẻ nghe truyện thần thoại ở trường mầm non, kết hợp với khả năng phát triển ở trẻ. Tôi thấy rằng cần thiết phải có các biện pháp để giáo viên sử dụng linh hoạt trong việc tổ chức kể truyện cho trẻ nghe, kích thích trẻ có sự sáng tạo và phát triển tính tích cực, tư duy và khả năng tự hoạt động của trẻ.
Kết luận: qua điều tra chúng tôi nhận thấy cần trang bị thêm cơ sở lý luận, các biện pháp cụ thể trong từng tiết học đặc biệt là tiết dạy trẻ kể lại truyện cho giáo viên nhằm giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức một cách hiệu quả.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỂ CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI
NGHE TRUYỆN CỔ TÍCH “TẤM CÁM”
THEO HƯỚNG TÍCH HỢP.
I. Biện pháp
Một trong những vấn đề quan trọng nhất của giáo dục học mẫu giáo cũng như tâm lý học mẫu giáo là vấn đề sáng tạo ở trẻ. Sự phát triển năng lực sáng tạo và ý nghĩa của công việc sáng tạo đổi mới sự phát triển chung và sự trưởng thành của trẻ em. Để thực hiện được vấn đề quan trọng của giáo dục học mầm non chúng ta cần hoàn thiện cách tổ chức tiết học và vận dụng các biện pháp thích hợp để kích thích tính tích cực. Tư duy, tưởng tượng nghệ thuật và khẳ năng sáng tạo trong tiết học: “Theo từ điển Tiếng Việt: Biện pháp là cách làm cách giải quyết một vấn đề cụ thể”. Như mục đích đề tài đã đặt ra ở đề tài này chúng tôi đã hệ thống hóa và đưa ra một số biện pháp mới dựa trên những cơ sở khoa học liên ngành, các phương pháp chung cơ bản cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
II. Hệ thống các biện pháp dạy trẻ
Tác phẩm văn học nói chung và truyện cổ tích nói riêng góp phần quan trọng vào sự phát triển toàn diện của trẻ mẫu giáo. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một môn quan trọng trong trường mầm non. Nó được chia làm 2 quá trình sư phạm:
Quá trình sư phạm thứ nhất: Cô đọc thơ, kể truyện, đọc truyện cho trẻ nghe. Quá trình này hoạt động chủ đạo nghiêng về phía cô, cô giáo chủ động hướng dẫn cho trẻ tri giác tác phẩm, động viên khuyến khích trẻ tham gia.
Quá trình sư phạm thứ hai: Cô tổ chức cho trẻ tự hoạt động văn học nghệ thuật. Cô tổ chức cho trẻ đọc thuộc thơ, diễn cảm, kể lại truyện, chơi đóng kịch. Quá tình này hoạt động chủ đạo nghiêng về phía trẻ, cô là người tổ chức hướng dẫn.
Để tiến hành hai quá trình sư phạm này khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, tôi lựa chọn các phương pháp sau:
Phương pháp đọc kể tác phẩm nghệ thuật.
Phương pháp trao đổi gợi mở.
Phương pháp trao đổi sử dụng các hình thức trực quan.
Phương pháp đưa trẻ vào hoạt động văn học nghệ thuật.
Có nhiều phương pháp, biện pháp có thể sử dụng trong tiết học kể chuyện cho trẻ nghe. Ở đây tôi thực hiện quá trình sư phạm thứ nhất đó là chủ yếu dựa vào phương pháp đọc kể tác phẩm nghệ thuật, và kết hợp một số phương pháp, biện pháp khác như trao đổi gợi mở sử dụng cách hình tượng trực quan sao cho việc kể chuyện của cô giúp trẻ cảm nhận được cái hay cái đẹp trong nội dung nghệ thuật của truyện cổ tích.
1. Biện pháp đọc kể tác phẩm nghệ thuật.
Đây là phương pháp chủ đạo, cô cần sử dụng mọi sắc thái, giọng nói của mình cùng với hình thức biểu hiện khác tạo cho tác phẩm một bức tranh âm thanh tương ứng. Phương pháp này đòi hỏi mức độ cao, đọc đúng, kể diễn cảm đi vào bản chất nghệ thuật của tác phẩm, người kể hòa trộn ngôn ngữ tác phẩm vào ngôn ngữ của mình bằng sự cảm thụ riêng và phối hợp với cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt. Tạo cho trẻ thâm nhập sâu hơn, hiểu rõ hơn ý nghĩa của truyện. Cô là trung tâm để nối tác phẩm với trẻ. Phương pháp này đòi hỏi sự giao tiếp giữa cô và trẻ. Từ phương pháp này tôi đưa ra các biện pháp kể truyện cổ tích cho trẻ nghe, bao hầm việc đọc và kể diễn cảm truyện. Kể diễn cảm kết hợp với hình thức nghệ thuật khác.
- Biện pháp kể diễn cảm sáng tạo.
Khi kể chuyện cô phải xác định được giọng kể kết hợp với ngữ điệu, giọng điệu chung của truyện cổ tích.
Có thể giọng trữ tình, mượt mà, có thể khoan khoái hào hùng. Cô hòa mình vào tác phẩm, hòa trộn ngôn ngữ của mình vào ngôn ngữ của tác phẩm để kể chuyện một cách sáng tạo.
1.2 Biện pháp kể diễn cảm kết hợp với các hình thức nghệ thuật.
Khi kể truyện cô giáo vừa chú ý kể diễn cảm vừa kết hợp sử dụng các loại hình nghệ thuật khác làm cho tiết học sinh động hơn, giúp trẻ cảm nhận truyện tốt hơn.
Kể truyện kết hộ với diễn xuất theo nội dung truyện.
Cô vừa kể vừa minh họa bằng các động tác, nét mặt, cử chỉ điệu bộ, thái độ của cô vơi từng nhân vật, tình tiết. Dù kể truyện ở tư thế nào cô cũng có thể kết hợp sử dụng điệu bộ giúp trẻ nhìn thấy rõ hơn và hình dung truyện kể dễ hơn.
Kể diễn cảm kết hợp với âm nhạc.
Khi kể truyện cô có thể kết hợp với nhạc cụ, cô ghi âm tiếng nhạc trên đàn organ khi kể truyện, có thể sử dụng khi bắt đầu vào tiết học để gây hứng thú cho trẻ. Cũng có khi sử dụng tiếng nhạc cuối tiết để kết thúc tình tiết nào đó trong truyện để nội dung truyện có ý nghĩa hơn.
Kể diễn cảm với đồ dùng trực quan.
Cô vừa kể vừa kết hợp cho trẻ xem tranh ảnh mô hình. Để trẻ nhìn thấy cụ thể hơn những biểu tượng trong truyện kể. Có thể treo tranh trên bảng, trên tường hoặc góc tạo hình để trẻ tự tri giác, trao đổi về nội dung trước hoặc sau khi nghe cô kể. Lời kể vẫn là trọng tâm tranh ảnh, mô hình, sa bàn…chỉ là đồ dùng bổ sung giúp cho lời kể thêm phong phú.
Kể trích dẫn kết hợp trò chuyện giải thích.
Cô kết hợp kể truyện với trò chuyện giải thích về nội dung . Hỏi trẻ về nội dung nghệ thuật và cảm nghĩ của trẻ đối với từng nhân vật, các hình tượng, cô cũng có thể nói về tình cảm của mình đối với các nhân vật, các hình tượng, gợi mở cho trẻ cách diễn đạt, suy nghĩ của trẻ. Cô có thể giải thích từ và khái quát đặc điểm nội dung các nhân vật hiện tượng trong truyện kể.
Phương pháp đọc diễn cảm kết hợp với kể chuyện.
Phương pháp đòi hỏi phải đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm, đòi hỏi mức độ cao đọc diễn cảm đi vào bản chất nghệ thuật của tác phẩm.
Đòi hỏi sự khúc triết sinh động, tạo khả năng ghi nhớ thông qua năng lực nghe nhìn, sự cảm nhận sắc thái biểu cảm và thái độ tình cảm của tác giả, của người kể với người nghe. Cô là trung tâm để nối tác giả, tác phẩm với trẻ. Đòi hỏi sự giao tiếp giữa cô và trẻ.
Kể tóm tắt truyện.
Biện pháp này có thể sử dụng khi kể lần cuối truyện trong tiết học. Việc tóm tắt khái quát những ý chính theo trình tự cốt truyện nhằm khắc câu biểu tượng nghệ thuật của truyện, giúp trẻ ghi nhớ tốt hơn về nội dung truyện khi lược bỏ bớt đi những chi tiết phụ, câu chuyện trở nên cô đọng hơn, vừa sức hơn đối với trẻ khi tiết học gần kết thúc.
1.2. Phương pháp trao đổi gợi mở.
Mục đích nhằm kích thích hoạt động nhận thức, nhằm phát triển ngôn ngữ tích cực ở trẻ. Phương pháp này đòi hỏi trẻ trẻ tham gia trao đổi, bộc lộ suy nghĩ, cảm thụ riêng của mình. Cần có một hệ thống câu hỏi thông minh, khéo léo để cuốn hút trẻ tranh luận. Từ phương pháp này chúng tôi đã đề ra một số biện pháp trò chuyện với trẻ về tác phẩm:
Trò chuyện đầu tiết học
Cô giáo đưa ra một vài tình huống để trò chuyện với trẻ. Mục đích của biện pháp này là gây hứng thú, gợi sự chú ý tập trung của trẻ vào tiết học. Cô có thể đưa ra một bức tranh, đồ chơi… có liên quan đến nội dung truyện sau đó cô và trẻ trò chuyện hoặc đầu tiết học cô có thể trò chuyện với trẻ kể về nội dung truyện, tên các nhân vật trong truyện.
Ví dụ:
Cô đưa cho trẻ xem bức tranh Tấm cho cá bống ăn và hỏi trẻ: Hình ảnh trong bức tranh thể hiện câu chuyện nào mà chúng ta đã được nghe?
Trò chuyện kết hợp với lời kể.
Cô vừa kể chuyện vừa trò chuyện với trẻ về nội dung, nghệ thuật của truyện. Ở cách thứ nhất là kể trích dẫn kết hợp với trò chuyện, cô kể từng đoạn rồi hỏi trẻ. Sau đó cô khái quát câu trả lời. Cách hai cô có thể trò chuyện với trẻ khi trẻ nghe hết câu chuyện.
Cô sử dụng những câu hỏi về các tình tiết trong truyện, giúp trẻ nhớ cốt truyện, nắm được nội dung truyện. Trong lời kể cô kết hợp trò chuyện và giải thích các từ ngữ miêu tả.
Ví dụ:
Tấm trèo lên cây hái cau, ở dưới gốc cây mụ dì ghẻ đã làm gì?
Câu hỏi văn vần nhằm tăng cường sự chú ý, tăng hứng thú để trẻ ghi nhớ về nội dung của truyện, về các hình tượng nhân vật, nó phải liên quan đến cốt truyện và tư tưởng của truyện.
Ví dụ:
Giặt áo chồng tao.
Thì giặt cho sạch.
Giặt mà không sạch.
Tao rạch mặt ra.
Đó là lời nói của nhân vật nào trong câu chuyện nào?
Những câu hỏi gợi mở cho trẻ đánh giá và bộc lộ suy nghĩ, tình cảm và cách đánh giá nhân vật về nội dung, các nhân vật, tình tiết của truyện.
Ví dụ:
Các con thấy Tấm là người như thế nào?
Trong truyện Tấm Cám con thích nhân vật nào hơn? Vì sao?
1.3. Phương pháp sử dụng các hình tượng trực quan.
Đây là phương pháp hỗ trợ bổ sung làm sâu sắc hơn, làm sống dậy các hình tượng trong tác phẩm.
Ví dụ:
Cô cho trẻ xem tranh minh họa truyện Tấm Cám kết hợp với kể chuyện cho trẻ nghe làm cho tiết học sinh động hơn, khơi gợi cảm xúc, tình cảm đạo đức và duy trì hứng thú cho trẻ tronh suốt tiết học.
Để thực hiện tiết kể truyện cổ tích cho trẻ mẫu giáo, cô có thể sử dụng hài hòa các biện pháp nêu trên, cần sử dụng linh hoạt các biện pháp, thường xuyên thay đổi cho tiết học sinh động phong phú. Tất cả các biện pháp trên đây không phải sử dụng để dạy trẻ trong một giờ học, mà đối với đối tưọng này ta sử dụng biện pháp này, đối với đối tượng khác ta sử dụng biện pháp khác sao cho phù hợp và đạt kết quả cao nhất. Thông thường dạng tiết học này thì phương pháp đọc và kể chuyện có nghệ thuật là phương pháp chính, còn các biện pháp khác hỗ trợ cho tiết học.
III. Thực nghiệm
1. Mục đích thực nghiệm
Để kiểm chứng biện pháp đã để xuất
2. Địa bàn thực nghiệm:
Đối tượng thực nghiệm: trẻ mấu giáo 5 – 6 tuổi
Địa bàn thực nghiệm lớp A1, trường mầm non Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội. Và lớp A2 trường mầm non Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội.
3. Thời gian thực nghiệm:
Tháng 3 năm 2011
4. Điều kiện thực nghiệm:
Chia làm hai nhóm đối tượng:
- Nhóm đối chứng 20 trẻ, lớp mẫu giáo lớn A2, trường mầm non Mai Dịch.
- Nhóm thực nghiệm 20 trẻ, lớp mẫu giáo lớn A1 trường mầm non Mai Dịch
Trẻ hai nhóm có trình độ ngang nhau.
Nội dung bài dạy như nhau.
Biện pháp sử dụng khác nhau.
Các yếu tố tâm lý tương đương.
Người làm thực nghiệm: Hai giáo viên có trình độ ngang nhau
5. Nội dung thực nghiệm: Tổ chức hoạt động trên tiết học
6. Tiêu chí đánh giá:
Kết quả thực nghiệm được đo bằng mức độ mạch lạc trong ngôn ngữ mà trẻ sử dụng trong quá trình diễn ra tiết học, trong các câu trả lời và câu nhận xét trẻ đưa ra.
Mức độ cao: Trẻ thuộc truyện, có thể tái tạo lại truyện bằng trí nhớ, ngôn ngữ của trẻ. Trẻ trả lời câu hỏi của giáo viên một cách liền mạch, đầy đủ các thành phần câu. Câu rõ ý giàu hình ảnh thể hiện sự quan sát và cảm nhận của cá nhân.
Mức độ khá: Trẻ nhớ lại các chi tiết và hành động của nhân vật trong truyện. Bước đầu trẻ biết sáng tạo một số chi tiết, sáng tạo ở một số hành động nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện phong phú gây ra sự hồi hộp đối với người nghe hay sáng tạo một vài motip của truyện.
Mức độ trung bình: Trẻ có thể nhớ được trình tự nội dung câu chuyện và kể tóm tắt nội dung truyện. Bước đầu biết sử dụng các câu có đủ thành phần câu, câu chưa rõ ý.
Mức độ yếu: Trẻ không nhớ nội dung truyện. Câu sử dụng còn chưa đầy đủ thành phần câu, trật tự còn sai, câu chưa rõ ý, nghèo nàn về hình ảnh.
7. Tiến hành thực nghiệm
a. Mục đích thực nghiệm: Sử dụng một số biện pháp tổ chức kể cho trẻ nghe truyện theo hướng tích hợp ở lớp mẫu giáo lớn để xem kết quả biển hiện như thế nào.
b. Nội dung thực nghiệm: Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài tôi tiến hành thực nghiệm sau: Kể cho trẻ 5 – 6 tuổi nghe truyện cổ tích Tấm Cám theo hướng tích hợp.
Lớp đối chứng 20 trẻ, Nhờ cô dạy sử dụng giáo án cũ
Đánh giá kết quả diễn biến
Lớp thực nghiệm: 20 trẻ, sử dụng giáo án thể hiện một trong những biện pháp trên
Đánh giá trẻ
Phân tích kết quả thực nghiệm
c. Những điều cần chú ý trước khi tổ chức tổ chức kể cho trẻ nghe truyện theo hướng tích hợp.
Xác định mục đích yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục cần đạt trong tiết học.
Đề ra một số biện pháp tổ chức.
Theo dõi mức độ kể lại truyện sáng tạo của trẻ qua 2 thực nghiệm.
Mục đích yêu câu chung.
- Trẻ nhớ tên truyện cổ tích Tấm Cám.
- Trẻ hứng thú, tự nguyện, tích cực và có nhiều sáng tạo trong khi nghe cô kể truyện.
- Giáo dục tình cảm thẩm mĩ, tình cảm đạo đức, tính kiên trì, sự nỗ lực của bản thân để hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
- Rèn kĩ năng ghi nhớ có chủ định và khả năng kể diễn cảm.
- Phát triển ở trẻ tính tích cực tư duy, tính độc lập, trí tưởng tượng, ngôn ngữ mạch lạc và khả năng tự hoạt động nghệ thuật của trẻ.
d. Một số biện pháp sử dụng trong 2 thực nghiệm:
Biện pháp 1: Trao đổi gợi mở với trẻ bằng hệ thống câu hỏi dựa vào mốc sự hiện tình tiết của truyện.
Biện pháp 2: Sử dụng câu hỏi trao đổi với trẻ theo hành động nhân vật trung tâm.
Biện pháp 3: Trao đổi bằng hệ thống câu hỏi hướng vào những yếu tố thần kỳ.
Biện pháp 4: Trao đổi với trẻ bằng các câu văn vần.
Biện pháp 5: Sử dụng một hoặc một số bức tranh tiêu biểu thể hiện nội dung chính của tác phẩm/
Biện pháp 6: Cô kể một đoạn diễn cảm kích thích trẻ nhớ lại truyện để trẻ kể tiếp.
Biện pháp 7: Cô sử dụng sa bàn rối tay.
Biện pháp 8: Cho trẻ nhận xét truyện theo cảm nghĩ của trẻ, kích thích trẻ nhớ lại nội dung truyện để trẻ có thể kể lại truyện bằng ngôn ngữ của mình.
Trên đây là một số biện pháp tôi sử dụng trong thực nghiệm. Tuy nhiên không nhất thiết phải sử dụng đầy đủ tất cả các biện pháp vào từng thực nghiệm mà tùy theo khả năng của trẻ cô sử dụng biện pháp nào cho phù hợp để kích thích trẻ thích nghe cô kể chuyện hơn và yêu thích môn học hơn.
e. Mô tả thực nghiệm:
Giáo án thực nghiệm: truyện Tấm Cám.
Mục đích yêu cầu:
- Trẻ nhớ được các tình tiết truyện, trong cốt truyện với những sự kiện hành động, tình huống, motip các nhân vật trong truyện.
- Trẻ trả lời các câu hỏi của cô.
- Trẻ tự kể lại truyện bằng trí nhớ, bằng ngôn ngữ và trí tưởng tượng của trẻ.
- Trẻ hứng thú, sau sưa, tích cực có nhiều sáng tạo trong khi kể.
- Giáo dục trẻ lòng nhân ái, tình đoàn kết với mọi người, ở hiền gặp lành, thật thà chăm chỉ, tính kiên trì khi thực hiện nhiệm vụ của bản thân.
Biện pháp sử dụng trong thực nghiệm:
- Trao đổi gợi mở vởi trẻ bằng hệ thống câu hỏi dựa vào cái mốc, sự kiện tình tiết của truyện.
- Sử một số bức tranh thể hiện nội dung của truyện Tấm Cám.
- Cô kể diễn cảm một đoạn, kích thích trẻ nhớ lại truyện và tự kể tiếp.
Đồ dùng: Một bộ truyện tranh Tấm Cám.
Tiến hành:
Ổn định tổ chức: Cô đọc câu thơ: Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta.
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.
Và hỏi trẻ: Câu thơ đó trong câu chuyện cổ tích nào mà các con đã được nghe?
Dẫn dắt trẻ vào bài.
Cô kể chuyện cho trẻ nghe, giọng điệu khoan thai, chậm chạp, thể hiện ngữ điệu mang tính trữ tình khi thể hiện các câu văn vần. Sau khi kể một lần cô phân tích cho trẻ rõ:
- Cô Tấm hiền lành, chăm chỉ được ông bụt giúp đỡ và cuối cùng được sung
sướng.
- Mẹ con nhà Cám vừa lười, vừa độc ác nên cuối cùng bị trừng phạt.
Sau lần kể thứ nhất cô kể lại đoạn cuối câu chuyện (đoạn cô Tấm hóa thành cây thị, về ở với bà cụ và cuối cùng được vua đón về cung). Ở đoạn này cô cần làm rõ các ý:
- Thị rụng vào bị của bà cụ hàng nước hiền lành (từ “đống tro bên đường”
đến hết câu “Bà cụ nói dứt lời thì quả thị rụng ngay vào bị”)
- Tấm chăm sóc bà cụ ( từ “…Bà cụ vừa đi khỏi nhà” hết câu “có sẵn cơm dẻo canh ngọt để phần” )
- Vua nhận ra Tấm và đón Tấm về cung vua (từ “…Một hôm vua đi qua” đến hết truyện)
Trao đổi gợi mở với trẻ bằng hệ thống câu hỏi dựa vào mốc sự kiện, tình tiết chính của truyện.
- Câu chuyện tên là gì?
- Trong chuyện có những nhân vật nào?
- Câu chuyện kể về cô Tấm có cuộc sống như thế nào?
- Mẹ con Cám đối xử với cô Tấm ra sao?
- Tính cách của cô Tấm như thế nào?
- Tính cách của mẹ con nhà Cám ra sao?
- Con thích nhân vật nào nhất? Vì sao?
Dùng một số bức tranh tiêu biểu để cho trẻ tri giác tác phẩm.
Thực nghiệm 2: Truyện “Tấm Cám”.
Yêu cầu tiết học: Trẻ nhớ tên truyện, tiến trình truyện trong cốt truyện với những sự kiện, hành động và tình huống, motip yếu tố thần kì có liên quan đến nhân vật cô Tấm hiền lành, chăm chỉ lao động được hưởng hạnh phúc, sung sướng. Còn người lười biếng độc ác như mẹ con cô Cám bị trừng phạt (cả hai mẹ con bị đuổi ra khỏi cung vua) là rất đúng.
Cô đặt câu hỏi nhấn mạnh đến chỗ trẻ cần ghi nhớ. Từ đó xâu chuỗi được các sự kiện hành động của nhân vật chính. Trẻ thêm thích thú khi nghe kể truyện.
Tiến hành trên tiết:
+ Cô giáo kể cho trẻ nghe toàn bộ tác phẩm bằng lời kể kết hợp với điệu bộ cử chỉ hành động, bằng giọng của mỗi nhân vật. Cô kể với nhịp độ vừa phải, giọng trầm ấm. Tạo môi trường kể chuyện cổ tích trẻ ngồi quây quần bên cô gần gũi đưa trẻ vào thế giới cổ tích thần tiên.
+ Cô kể tóm tắt truyện kết hợp với tranh minh họa, rút gọn và giải thích truyện để trẻ hiểu, nhớ nội dung cốt truyện. Hình tượng trực quan giúp trẻ củng cố khắc sâu những biểu tượng và làm rõ ràng phong phú biểu tượng.
+ Trao đổi với trẻ bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Nhằm mục đích để trẻ tiếp nhận tác phẩm một cách sâu sắc, trẻ nhận ra màu sắc biểu cảm của nhân vật cô Tấm và những hành động độc ác của mẹ con cô Cám. Kết thúc có hậu đã mang lại niềm vui cho trẻ thơ. Trẻ thêm yêu nghe chuyện cổ tích nói riêng và yêu thích môn văn học nói chung.
Hệ thống câu hỏi:
- Cô vừa kể cho các con nghe truyện gì?
- Ai có nhận xét gì về cuộc sống của cô Tấm.
- Tính cách của Mẹ con cô Cám như thế nào?
- Trong truyện con yêu quí nhân vật nào? Vì sao?
- Nếu con là Tấm con sẽ làm gì?
- Nếu là nhân vật Cám, hay dì ghẻ trong câu chuyện con sẽ làm gì?
+ Cho trẻ xem diễn rối vở kịch Tấm Cám.
+ Cho trẻ vẽ tranh các nhân vật trong truyện.
Nhận xét: Khi đưa các biện pháp trên vào tiết học tôi thấy trẻ rất hứng thú, chăm chú lắng nghe cô kể chuyện. Trẻ cảm nhận được ý nghĩa nhân hậu của truyện: người tốt bụng chăm chỉ được hưởng hạnh phúc.
II. Phân tích kết quả thực nghiệm:
Dạy trẻ 2 tiết truyện “Tấm Cám” trên hai nhóm khác nhau ở hai lớp tôi nhận thấy rằng ở nhóm thực nghiệm có ngôn ngữ mạch lạc hơn, cũng như sổi nổi hơn trong giờ học so với trẻ ở nhóm đối chứng.
Dựa vào các tiêu chí đánh giá như đã đưa ra ở phần trên, qua 2 thực nghiệm, tôi đo được mức độ biểu hiện của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm như sau:
STT |
Mức độ biểu hiện |
Nhóm thực nghiệm
|
Nhóm đối chứng |
Số trẻ |
Tỷ lệ |
Số trẻ |
Tỷ lệ |
01 |
Mức độ 1 |
04 |
20% |
02 |
10% |
02 |
Mức độ 2 |
08 |
40% |
05 |
25% |
03 |
Mức độ 3 |
06 |
30% |
08 |
40% |
04 |
Mức độ 4 |
02 |
10% |
05 |
25% |
Qua việc sử dụng một số biện pháp kể truyện vào 2 thực nghiệm ở 2 nhóm khác nhau, tôi thấy rằng với sự lựa chọn các nhóm trẻ có sự tương đồng về các mặt nhưng ở các nhóm lớp khác nhau thì kết quả ở nhóm thực nghiệm luôn cao hơn nhóm đối chứng (trẻ hứng thú hơn, ngôn ngữ mạch lạc hơn và nhớ truyện hơn). Điều đó cũng chứng tỏ các biện pháp mà chúng tôi đưa ra là có tính thực tiễn.
Mức độ 1:
Nhìn vào bảng ta thấy trẻ hoàn toàn có khả năng kể lại truyện cổ tích sáng tạo nếu cô giáo có những biện pháp dạy trẻ kể lại truyện một cách sáng tạo.
Qua thực nghiệm tôi thấy trẻ nhóm thực nghiệm kể lại truyện đạt ở mức độ 1 đã tăng lên nhiều so với nhóm trẻ đối chứng. Khi nghe cô kể chuyện trẻ tích cực say xưa trẻ nghe và tưởng tượng ra ngôn ngữ câu chuyện, chứ không phụ thuộc vào ngôn ngữ văn bản truyện. Một số trẻ đã có thể thâm nhập vào tác phẩm truyện nhưng ở mức độ trung bình.
Mức độ 2:
So với nhóm đối chứng thì nhóm trẻ thực nghiệm có thể nhớ được các chi tiết và hành động của nhân vật.
Mức độ 3:
Ở nhóm đối chứng tăng hơn so với nhóm thực nghiệm, do đó rất nhiều trẻ nhớ được trình tự nội dung truyện. Cùng nhóm thức nghiệm thì do có biện pháp mà tôi đưa vào kết hợp với khả năng của trẻ. Trẻ nhớ lại được trình tự nội dung câu chuyện mà cô kể cho trẻ nghe và trẻ có thể kể tóm tắt câu chuyện.
Mức độ 4:
Bằng biện pháp mà tôi đã khuyến khích trẻ cùng tham gia trong khi nghe kể truyện và kết quả chỉ có 2 trẻ là không nhớ được nội dung câu chuyện so với nhóm đối chứng là 5trẻ.
Kết luận kết quả thực nghiệm: Qua phân tích, nhận xét, đánh giá và đối chiếu kết quả thực nghiệm, tôi nhận thấy rằng : Có sự khác biệt về kết quả trên trẻ là do một số yếu tố sau đây:
Nhóm đối chứng:
Giáo án của giáo viên thiếu sâu sắc, cô chưa đặt ra được những câu hỏi mở (như thế nào? Tại sao? Con co suy nghĩ gì?) để kích thích trẻ tư duy trả lời mà thường hỏi trẻ những câu hỏi đóng (có hay không). Vì thế trẻ không có cơ hội để thể hiện ngôn ngữ chủ động của bản thân, dẫn tới việc giáo viên cũng không có cơ hội để chỉnh sửa ngôn ngữ cho trẻ.
Trong quá trình thực hiện, giáo viên chưa tận dụng các điều kiện để phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ như: đàm thoại về đồ dùng trực quan, khuyến khích động viên trẻ trả lời câu hỏi của cô và cho trẻ nhận xét lẫn nhau.
Nhóm thực nghiệm:
Mặc dù vẫn xây dựng giáo án theo các phương pháp và tiến trình cơ bản nhưn trong chương trình nhưng giáo viên đã chuyển bị một hệ thông câu hỏi trao đổi gợi mở, vừa giúp trẻ nhanh chóng nắm được nội dung truyện, thuộc truyện nhanh lại vừa tạo cơ hội cho trẻ được phát huy năng lực tư duy ngôn ngữ tích cực của bản thân.
Giáo viên đã chú ý hơn trong việc giải thích các từ mới, khó trong truyện, giúp trẻ nói nhưng câu đầy đủ thành phần câu, rõ ý và phong phú về hình ảnh nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Trẻ ở nhóm này tích cực hoạt động, sổi nổi phát biểu hơn vì trẻ được cô và các bạn động viên khuyến khích kịp thời, đồng thời lại được nhận xét các bạn để giúp bạn học tốt hơn.
Tóm lại: Khi đưa ra một biện pháp mới vận dụng vào giờ kể truyện cổ tích cho trẻ nghe để phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, tôi đã thu được những kết quả khả quan. Trẻ phát huy được năng lực cá nhân: (tự tin, sôi nổi), các năng lực tư duy ghi nhớ, tưởng tượng), đặc biệt là các năng lực ngôn ngữ như: ngôn ngữ mạch lạc, tăng về vốn từ. Điều này chứng tỏ thực nghiệm của tôi đã thành công, các biện pháp mà tôi đưa ra có ý nghĩa thực tiễn và phù hợp với trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi.
KẾT LUẬN
I. Kết luận:
Việc hình thành nhân cách con người nói chung và cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi nói riêng đống vai trò hết sức quan trọng, là nhiệm vụ đang được Đảng nhà Nước đặc biệt quan tâm. Nhân cách của trẻ không tự nhiên mà có, nó được hình thành và phát triển trong quá trình chăm sóc giáo dục của người lớn. Vì vậy, việc nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp nhắm thúc đẩy quá trình phát triển của trẻ là rất cần thiết và cấp bách.
Qua việc tìm kiếm xây dựng tôi thấy để tài đã thu được những kết quả nhấn định. Những vấn đề thuộc lý luận chung về đặc điểm tâm lý của trẻ giúp chúng ta thấy rõ khả năng, năng lực của trẻ, dựa trên đặc điểm ấy, chúng ta hướng tác động phù hợp làm cho quá trình tâm lý của trẻ ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
II. Kiến nghị sư phạm:
Qua công trình nghiên cứu: “Một số biện pháp kể cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi nghe truyện cổ tích Tấm Cám theo hướng tích hợp” trên đây, tôi nhận thấy rằng trẻ 5 – 6 tuổi có khả năng kể truyện sáng tạo. Tuy nhiên để tiết học đạt kết quả cao đòi hỏi cô giáo:
- Cô phải có những hiểu biết lý luận về khoa học liên ngàng để có thể vận dụng biện pháp và đề ra những biện pháp phù hợp với đối tượng trẻ, phát huy tính độc lập sáng tạo ở trẻ.
- Xuất phát từ khả năng của trẻ, cô giáo khuyến khích trẻ thực hiện nhiệm vụ học tập, không áp đặt gò bó trẻ.
- Khi rèn luyện kỹ năng kể lại truyện cho trẻ, cô giáo cần chú ý đến cách diễn đạt ngôn ngữ, cách thể hiện cử chỉ, điệu bộ cho phù hợp.
- Cô giáo phải là người sáng tạo trong hoạt động kể chuyện để kích thích trẻ kể lại chuyện một cách sáng tạo.
- Tiết học cô giáo phải tổ chức sao cho tất cả mọi trẻ đều được tham gia hoạt động.
- Cô giáo cần có lòng nhiệt tình, tình thương yêu trẻ, gợi ý động viên trẻ để phát huy hết khả năng sáng tạo của mình.
Công trình nghiên cứu “ Một sô biện pháp kể cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi nghe truyện cổ tích Tấm Cám theo hướng tích hợp” cho thấy truyện là món ăn tinh thần không thể thiếu với trẻ. Vì nó vừa là nội dung, vừa là phương tiện để giáo dục trẻ phát triển mọi mặt đặc biệt là phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Trẻ sẽ ngày một thông minh hơn, học tập sau này sẽ tốt hơn. Như vậy chúng ta đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ.
Vì điều kiện thời gian có hạn, cũng như năng lực của bản thân tôi còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Mong các thầy cô và các bạn đồng nghiệp góp ý xây dựng để đề tài hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.