- Đặt vấn đề
Giáo dục mầm non luôn hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện cho trẻ, chuẩn bị những năng lực, phẩm chất và các kỹ năng xã hội cần thiết … Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non đã và đang là một nhiệm vụ không thể thiếu trong công tác giáo dục mầm non, là vấn đề then chốt, là nền móng để phát huy tối đa hiệu quả giáo dục. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ giúp trẻ tự tin, sống có trách nhiệm và tham gia tốt hơn vào các hoạt động xã hội.
Các kĩ năng xã hội là những ứng xử, giải quyết các vấn đề xảy ra trong cuộc sống xã hội hàng ngày. Kĩ năng xã hội chịu sự kiểm soát của các chuẩn mực xã hội nhưng chúng lại mang đặc điểm cá nhân. Những tác động giáo dục từ sớm sẽ mang lại hiệu quả cao và tránh bớt những sai phạm trong quá trình tự mò mẫm, giúp cho cá nhân sớm định hình cách sống và đáp ứng tốt hơn các yêu cầu chuẩn mực xã hội, dạy kĩ năng sống cho trẻ nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều làm và không nên làm. Vì vây, Là một giáo viên đứng lớp 5 tuổi, tôi nghĩ mình phải làm một điều gì đó thiết thực trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ nên tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi”
- Nội dung:
1.Thực trạng vấn đề:
Bộ giáo dục và đào tạo đã phát động phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Trong năm nội dung thực hiện có nội dung 3 “rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh”.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để kích thích tính tích cực học tập của trẻ, ai cũng muốn con mình được học đọc và học viết ngay trong những năm tháng học ở mẫu giáo.
Đối với giáo viên mầm non thường tập trung lo lắng cho những trẻ có những vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy! Vì vậy, giáo viên phải mất rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non.
a.Thuận lợi:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ Trung ương đến địa phương, Phòng Giáo dục- Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng sống cho trẻ mầm non một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện rèn kỹ năng sống cho trẻ và những kỹ năng cơ bản đầu tiên của trẻ Mầm non cần rèn như: Rèn luyện kỹ năng tự tin, rèn kỹ năng hợp tác, kỹ năng tò mò, kỹ năng giao tiếp, rèn kỹ năng tự phục vụ.
Được sự quan tâm của ban giám hiệu luôn chỉ đạo sát sao với công tác chuyên môn. Luôn có sự đầu tư và bồi dưỡng cho chuyên môn.
Ban giám hiệu luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, các phương tiện dạy học hiện đại.
Trẻ đã học qua lớp bé và nhỡ nên đã có kiến thức và kỹ năng nhất định. Trẻ mạnh dạn ham học hỏi và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh trẻ.
Sự chuyển tiếp sang tuổi mẫu giáo lớn liên quan đến sự thay đổi tâm lý và vị thế của trẻ. Trẻ bắt đầu cảm nhận mình là người lớn nhất trong độ tuổi mầm non. Khả năng kiềm chế ở độ tuổi này tốt hơn so với trước. Do vậy, trẻ có thể phục tùng mục đích, nhiệm vụ, yêu cầu của người lớn.
b. Khó khăn:
Đối với giáo viên mầm non
Phong trào thi đua “
Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc thực hiện chương trình GDMN mới quá mới, đối với giáo viên dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của trẻ còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do nhiều năm thực hiện chương trình đổi mới quá lâu khi chuyển qua chương trình GDMN mới trong công tác soạn giảng nhận thức từng giáo viên chưa có tính năng động sáng tạo.
Về phía các bậc phụ huynh
Cha mẹ trẻ em luôn nóng vội trong việc dạy con; do đó, khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, không chú ý đến con mình có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?
Với suy nghĩ “Việc nhà là việc vặt”, nhiều cha mẹ đã bỏ qua phần giáo dục siêu quan trọng này. Chưa tính đến việc cha mẹ bỏ qua lợi ích của những công việc nhỏ nhặt mà chỉ nói đến khả năng thích ứng trong mọi hoàn cảnh, con kém hẳn so với các bạn.
Khảo sát đầu năm tỷ lệ kỹ năng sống của trẻ: Mạnh dạn tự tin 57%; Kỹ năng hợp tác 52%; Kỹ năng thích khám phá học hỏi 47%; Kỹ năng trong giao tiếp 54%; Kỹ năng tự phục vụ 61%.
2. Biện pháp:
Theo các chuyên gia thì nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ hết sức đơn giản và gần gũi với trẻ. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài và qua thực tế giảng dạy, tôi đã thực hiện các biện pháp chung để giải quyết vấn đề như sau:
- Bản thân phải có nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỷ năng sống
- Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi mầm non
- Cụ thể hóa nội dung những kỹ năng cơ bản cần dạy trẻ
- Xác định nhiệm vụ cơ bản đối với từng đối tượng trong việc dạy trẻ kỹ năng sống
- Biện pháp tuyên truyền với các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống trong gia đình
- Biện pháp giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh.
* Biện pháp cụ thể
1. Nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỷ năng sống:
Đầu năm học, tôi được tham gia lớp tập huấn về dự án “tăng cường khả năng sẵn sàng đến trường mầm non cho trẻ” tôi hiểu rõ hơn kỹ năng sống cần dạy trẻ bao gồm những nội dung gì, mục đích của việc dạy trẻ kỹ năng sống. Và để rèn cho trẻ những kỹ năng đó thì không chỉ bằng lời nói mà phải bằng hành động thực tế và trong các hoạt động vui chơi của trẻ. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung một cách tốt nhất.
2. Xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ 5 -6 tuổi:
Đối với tâm sinh lý trẻ em 5 - 6 tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học là chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp bản thân tôi cũng như các giáo viên khác lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ .
3. Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ:
+ Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên mà mỗi giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Và trẻ thể hiện tính kiên trì thường xuyên và ý thức hơn. Trẻ có thể đánh giá các trở ngại một cách đúng hơn và biết tự lượng sức mình để khắc phục những trở ngại đó. Sự động viên khuyến khích của cô giáo, người lớn có ảnh hưởng tích cực và làm cho trẻ tin vào sức lúc và khả năng của mình.
Ví dụ 1: Tiết học tạo hình “Vẽ cô giáo”
Trẻ nói: Con không biết vẽ.
Cô : Con có yêu quý cô không nào? Con yêu quý cô thì cô tin là con có thể vẽ được cô giáo rất đẹp đấy! Con hãy cầm bút và vẽ nào?
Ví dụ 2: Giờ hoạt động ngoài trời “Quan sát vườn rau” trong khi đang quan sát và đàm thoại trẻ phát hiện ra có 1 con sâu đang bò trên là rau, trẻ tỏ ra rất sợ hãi. Lúc này cô giáo chính là người giúp trẻ quên ngay nổi sợ hãi đó
Cô: - Con sâu đó như thế nào?
- Con thấy con sâu đó đang làm gì? Nó có lợi hay có hại? Vì sao?
Con sâu không đáng sợ nhưng nó lại gây hại cho cây cối, mùa màng đấy.
- Để cho rau xanh tốt, nhanh lớn chúng ta phải làm gì?
Và cô bắt ngay con sâu lên khỏi lá rau để trẻ thấy rằng con sâu không đáng sợ mà cần phải diệt trừ nó.
Hầu hết trẻ ở độ tuổi này đều cảm thấy tự tin và thể hiện bản thân mình thông qua thành tích của trẻ. Chẳng hạn, trẻ có thể làm được một số việc đơn giản hàng ngày như: Quét nhà, làm trực nhật hay làm vệ sinh cá nhân, …và cố gắng hoàn thành công việc được giao.
Ví dụ: Lao động cuối tuần: Tôi giao nhiệm vụ cho trẻ là các nhóm thi nhau lau và cất dọn đồ chơi các góc. Trẻ ở các nhóm thi đua nhau làm nhanh, sạch và gọn để thể hiện mình.
Dạy con cách qua đường là kỹ năng cần thiết giúp trẻ tự tin, chủ động hơn trong cuộc sống.
Ví dụ: Chủ đề giao thông
Với tiết khám phá tôi cung cấp cho trẻ các kiến thức về an toàn giao thông, đồng thời tôi dạy trẻ các kĩ năng qua đường như:
- Khi đi muốn qua đường con phải làm gì?
- Nếu có nhiều xe cộ qua lại con sẽ làm như thế nào?
- Khi nào thì con được qua đường?
- Các bạn nhỏ khi qua đường phải có ai đi cùng?
Sau đó tôi cho trẻ chơi đóng vai bé và mẹ qua đường.
Ngoài ra giao lưu tình cảm, tiếp xúc gần gũi với trẻ là 1 cách tạo ra sự tin tưởng, gắn bó giữa trẻ với người xung quanh. Tăng cường sự phát triển các giác quan, góp phần tích cực phát triển các kĩ năng xã hội, trong đó có kĩ năng sống tự tin. Tôi luôn tạo nhiều thời gian nhất có thể để giao lưu với trẻ bằng lời nói, cử chỉ thể hiện cảm xúc, ánh mắt, nét mặt đặc biệt là ánh mắt sẽ khiến trẻ cảm nhận được thái độ, tình cảm của người cùng giao tiếp. Và những cuộc trò chuyện này mang ý nghĩa nhiều mặt: phát triển ngôn ngữ, tư duy, các chức năng tâm lí, tình cảm,kĩ năng giao tiếp ứng xử.
+ Kỹ năng sống hợp tác:
Ở độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm. Tình bạn ổn định bắt đầu nảy sinh. Chúng sẵn sàng chia sẻ với bạn và tình bạn bắt đầu trở nên quan trọng với trẻ.
Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
Ở kĩ năng này chủ yếu tôi sử dụng trò chơi để dạy trẻ. Với biện pháp này không chỉ cung cấp cho trẻ kiến thức một cách tự nhiên, đồng thời là cơ hội cho trẻ hợp tác với nhau trong hoạt động, từ đó paths triển tính đoàn kết, tương trọ giữa các trẻ trong lớp.
- Ở trò chơi học tập đó là trò chơi có luật nên trẻ cần phải có kiến thức và biết họp tác với bạn.
Ví dụ: Lĩnh vực phát triển nhận thức: Làm quen với toán “Sắp xếp theo quy tắc”
Tôi sử dụng trò chơi “Xếp tranh” và chia lớp thành 3 nhóm.
Yêu cầu: Mỗi nhóm sẽ hoàn thành một bức tranh xếp theo qui tắc đội nào gắn đúng nhanh đội đó sẽ chiến thắng. Và lúc này buộc trẻ phải thảo luạn với nhau cùng nhau hợp tác mới hoàn thành bài tập.
- Với trò chơi đóng vai thì sao? Ở trò chơi này là cơ hội nhiều nhất để rèn và phát triển kĩ năng hợp tác của trẻ.
Ví dụ 1: Góc xây dựng thì tất cả trẻ trong nhóm cùng nhau hoàn thành công trình và để làm được điều đó tất cả trẻ cùng thảo luận, phân công công việc cho nhau cùng nhau làm công việc được giao, cuối cùng trẻ cùng nhau hoàn thiện những cái cuooius cùng của công trình. Đó là một cách họp tác cùng làm việc.
Ví dụ 2: Góc học tập – Hoàn thành bài tập trẻ mảng tường với chủ đề nhánh “Một số loài hoa” trẻ sẽ có nhiều bức tranh rỗng về hoa và yêu cầu trẻ tô màu, cắt và gắn lên mảng tường. Cũng như trò chơi xây dựng trẻ sẽ thảo luận xem làm như thế nào, ai tô màu,ai cắt và ai là người gắn cho đúng yêu cầu của bài tập: 3-4 trẻ sẽ tô màu, 1 - 2 trẻ cắt và 1 trẻ sẽ gắn theo hiểu biết về yêu cầu bài tập của trẻ.
- Trò chơi dân gian trẻ lĩnh hội được rất nhiều kiến thức và đặc biệt những kĩ năng sống trong đó có kĩ năng hợp tác.
Ví dụ 1: Trò chơi dân gian “Rồng rắn lên mây” ở trò chơi này ngoài rèn cho trẻ một số tố chất thì nó cũng rèn cho trẻ tinh thần đoàn kết hợp tác với nhau. Tất cả trẻ làm con rắn phải đoàn kết, đồng lòng với nhau để “cái đuôi” không bị bắt.
Ví dụ 2: Trò chơi dân gian “Kéo co” ở trò chơi này trẻ phải biết dùng sức mạnh của bản thân và tập thể để kéo cho được bên kia ngã về phía mình. Một vạch đích để ở giữa sân chơi, có dây thừng căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau nắm lấy dây thừng để kéo. Một người cầm trịch ra hiệu lệnh. Hai bên ra sức kéo, sao cho người bên kia kéo về bên mình là thắng. nếu trẻ không đồng lòng, hợp tác với nhau thì đoiị của mình bị thua vì vậy để chiến thắng trong trò chơi này thì trẻ phải cùng hợp tác với nhau.
Ngoài sử dụng trò chơi tôi còn sử dụng câu chuyện, bài hát để rèn kĩ năng sống hợp tác. Tôi cho trẻ cùng nhau kể một câu chuyện, hay tất cả trẻ cùng hát 1 bài hát theo yêu cầu của cô.
Ví dụ: Truyện “Ngày và đêm” thì tôi cho 2 -3 trẻ cùng nhau kể, mỗi trẻ sẽ kể một đoạn của câu chuyện, và đến trẻ cuối cùng thì câu chuyện hoàn chỉnh.
Không những dạy trẻ qua câu chuyện, bài thơ, bài hát, qua trò chơi mà tôi còn rèn kĩ năng hợp tác cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, qua các hoạt động. Chẳng hạn, tôi muốn trẻ cùng tôi hoàn thành một việc nào đó thì tôi cần phải hợp tác với trẻ.
Ví dụ: - Bây giờ cô muốn cùng các con chăm sóc luống rau lớp mình, các con có đồng ý không nao?
- Bạn nào sẽ giúp cô nhổ cỏ?
- Ai giúp cô bắt sâu cho rau? ….
Nhờ sự hợp tác của trẻ mà tôi hoàn thành công việc nhanh chóng hơn và đó cũng là một cách rèn các kĩ năng sống cho trẻ như: hợp tác, tự lập, …
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Tôi cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
Để rèn và phát huy tốt kĩ năng này tôi đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau kết hợp các phương pháp giáo dục như: Sử dụng lời nói; dùng tình huống; sử dụng trò chơi;
* Sử dụng lời nói nhằm giúp trẻ nắm được các nội dung cần thực hiện. Ở phương pháp này đòi hỏi phải chú ý tới khâu dẫn dắt bởi đây là điểm mấu chốt lôi cuốn hứng thú và sự chú ý của trẻ, giúp trẻ tiếp thu tốt kiến thức các nội dung tiếp theo.
* Sử dụng tình huống: nhằm hình thành cho trẻ kĩ năng giải quyết những tình huống thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Các tình huống không có sẵn và bản thân tôi phải phát hiện và tận dụng các tình huống có vấn đề và biết cách xử lí. Tuy nhiên, ở trong trường mầm non ít khi hay thậm chí không xảy ra các tình huống như: Lạc đường, bị bắt cóc, giúp đỡ người già, … Vì thế, tôi tạo ra một số tình huống thông qua xây dựng kịch bản chơi trò chơi đóng kịch
Ví dụ 1: Với bài thơ “Qua đường” (chủ đề giao thông)
Tôi xây dựng thành kịch bản tình huống và tổ chức cho một nhóm trẻ tham gia.
* Sử dụng trò chơi: trẻ được học tập các kiến thức, kĩ năng một cách tự nhiên qua các trò chơi, đồng thời đây cũng là cơ hội để trẻ trãi nghiệm và kiểm tra lại vốn kiến thức kĩ năng của mình. Đây cũng được coi là hoạt động có ý nghĩa trong phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Khi tham gia trò chơi trẻ khám phá môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh mình.. Hoạt động vui chơi cũng đặt ra cho trẻ nhiều tình huống bất ngờ đòi hỏi trẻ sự linh hoạt, nhạy bén và sang tạo để giải quyết tình huống chơi.
Trò chơi tôi sử dụng có 2 loại: trò chơi sưu tầm và sáng tạo trò chơi mới.
- Trò chơi học tập là nhóm trò chơi có luật nhằm mục đích phát triển hoạt động trí tuệ và nhận thức. Qua trò chơi này củng cố nhận biêt, phân biệt và phân nhóm các đối tượng.
Ví dụ 1: Làm quen với toán “Đong các đối tượng có dung tích khác nhau bằng 1 đơn vị đong”. Ở tiết học này tôi cho trẻ chơi trò chơi đong nước đầy 2 chai không to bằng nhau và cho trẻ nhận xét kết quả đong.
Ví dụ 2: Khám phá tự nhiên “Sự phát triển của cây từ hạt”.
Tôi yêu cầu trẻ xếp đúng thứ tự quá trình phát triển của cây từ hạt (Hạt -> mầm -> cây con -> cây nhiều cành, nhiều lá -> cây có hoa -> cây có quả.)
- Đặc biệt với trò chơi khoa học là những trò chơi mang tính khám phá, thử nghiệm nhằm cung cấp cho trẻ những tri thức tiền khoa học, khuyến khích và nuôi dưỡng trí tò mò, ham hiểu biết, góp phần phát triển trí tuệ và chuẩn bị những kĩ năng nhận thức nhất định. Với trò chơi này tôi gần như sử dụng triệt để nhằm rèn kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu cho trẻ.
Ví dụ 1: Khám phá thiên nhiên “Sự kì diệu của cát”, tôi đã tổ chức cho trẻ chơi với cát
- Với những chậu cát thật đẹp này các con có ý tưởng trò chơi gì với cát không?
(làm tranh cát, in khuôn hình, xây lâu đài cát, làm hang cát, …). Hay cho trẻ chơi “đồng hồ cát”.
Ví dụ 2: Cho trẻ chơi với nước, thả vật nổi vật chìm:
- Vì sao miếng xốp lại nổi?
- Vì sao hòn sỏi lại chìm?
Ví dụ 3: Cho trẻ thí nghiệm nam châm với sắt, nam châm với gỗ:
- Khi nam châm đặt gần gỗ thì điều gì xảy ra?
- Vì sao nam châm không hút được gỗ?
- Chuyện gì sẽ xảy ra khi nam châm và sắt đặt gần nhau?
Hay tôi cho trẻ chơi pha màu nước khi khám phá về sự kì diệu của nước:
- Vì sao nước biến thành màu vàng? (pha bột màu vàng)
- Tại sao nước bây giờ màu đỏ mà lại ngọt? (pha với nước dâu)
- Để làm ra nước biển cần làm như thế nào?
+ Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.
Ví dụ 1: Giờ đón trả trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ về cách giao tiếp để tự bảo vệ mình:
- Nếu lạc đường sẽ tìm đến ai để hỏi? Con hỏi như thế nào?
- Nếu có người lạ đụng chạm vào người con phải làm gì?
- Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào?
Hay thỉnh thoảng cũng có khách của cô giáo, hoặc ban giám hiệu đến dự giờ . Tôi dạy con ứng xử lịch sự vui vẻ: Tôi nhắc trẻ đứng dậy khoanh tay chào “Chúng cháu chào cô (bác) ạ!”.
Và tôi cũng cho trẻ biết có nhiều người xấu ẩn giấu trong cái vẻ đàng hoàng. Tôi dạy trẻ cách trả lời khách lịch sự và có khoảng cách an toàn.
Ví dụ 2 : Tôi đóng một vai làm người đi đường và rủ bé : Đi cùng cô để cô dắt về với mẹ.
Trẻ: Dạ, không cháu chờ mẹ cháu ở đây ạ!
Còn các trẻ khác nhắc bạn: “Đừng đi, nếu không sẽ bị bắt cóc đấy”.
* Hay dạy cho trẻ:
- Chào bạn- chào như thế nào?
- Chào bố mẹ - chào ra sao? …
+ Kỹ năng tự lập: Dạy trẻ độc lập chính là trao cho bé thông điệp: "Con có giá trị, hữu ích và có khả năng". Giống như chim mẹ dạy chim con biết bay và tự đi kiếm mồi, việc chúng ta đào tạo cho trẻ khả năng độc lập cũng rất quan trọng. Chắc chắn trong mỗi chúng ta chẳng bao giờ nghe thấy chim mẹ nói với con của nó rằng: “Con cứ ở trong tổ này. Ở ngoài kia nhà cửa nhiều lắm, con sẽ rất khó bay và chẳng kiếm được thức ăn. Con cứ ở mãi trong tổ càng lâu càng tốt".
Dù người lớn cố bao bọc trẻ thế nào thì cũng không thể đi theo con suốt cuộc đời, vì thế chúng ta cần dạy con trẻ khả năng độc lập ngay từ bé để trẻ có thể trở thành người trưởng thành không phụ thuộc.
Đúng vậy, mỗi chúng ta ai cũng làm cha, làm mẹ chúng ta không thể đi theo con trẻ suốt cuộc đời được vì vậy chúng ta phải dạy con trẻ tình độc lập ngay từ khi còn nhỏ. Và xác định được như vậy tôi đã rèn cho trẻ một số kĩ năng tự phục vụ như: Kỹ năng sinh tồn, kỹ năng thu dọn đồ chơi, gấp quần áo, giúp cô sắp xếp bàn ăn, lòng trắc ẩn, trách nhiệm, … và để thực hiện tốt rèn kĩ năng này cho trẻ tôi chủ yếu sử dụng phương pháp tham gia các hoạt động lao động. Thông qua hoạt động này kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng lao động, kỹ năng nhận thức của trẻ được phát triển. và từ đó trẻ biết hợp tác với mọi người, biết làm việc độc lập để hoàn thành công việc. Đây cũng là cơ hội cho trẻ được hoạt động lao động phục vụ bản thân và giúp đỡ người khác.
Để tổ chức hoạt động lao động nhằm rèn kỹ năng tự lập cho trẻ bản thân tôi phải lập kế hoạch cụ thể, trò chuyện với trẻ, nêu ý nghĩa công việc trẻ cần làm và phân công nhiệm vụ cho trẻ, sau đó kiểm tra kết quả, nhận xét.
VD: Chủ đề: Nghề nghiệp
Hoạt động chiều: Tôi cho trẻ
“Nhận biết những nguy cơ cháy nổ có thể gặp”, tôi sẽ cung cấp cho trẻ những kiến thức, và kĩ năng cơ bản sau:
- Nhận biết các nguồn gây ra lửa (bếp gas, bật lửa, cồn, nến, dầu, xăng,..)
- Biết ảnh hưởng tốt /xấu của lửa trong cuộc sống.
- Biết cách dập lửa an toàn (khăn ướt, nước, bình xịt)
- Tôi cho trẻ đóng vai giả làm chú lính cứu hoả → từ đó trẻ sẽ được trang bị kiến thức và kĩ năng cần thiết cho mình.
Tôi đã dạy trẻ cách ứng phó từ bây giờ để trẻ biết cách thoát ra nếu không may điều đó xảy ra trong tương lai. Đặc biệt, tôi khẳng định với trẻ: “Không có gì quý hơn chính bản thân con”. Vì thế, con không cần mang theo bất kể cái gì khi thoát ra. Khi nào thoát ra ngoài rồi, con cần phải kêu cứu. Nếu bé nào cũng biết điều đó thì tỷ lệ tử vong do các thảm họa gây ra sẽ giảm tới mức tối thiểu.
Hằng ngày tôi cũng khuyến khích trẻ giúp cô thu dọn đồ dùng, đồ chơi sau khi học xong, giúp cô xếp bàn ăn, chia cơm cho bạn và tôi thay đổi cho tất cả trẻ đều được tham gia.
Ví dụ: - Chuẩn bị đến giờ ăn rồi, hôm nay bạn nào sẽ cùng cô sắp xếp bàn ăn nhỉ?
- Khi xếp chúng mình phải xếp như thế nào?
Ví dụ 2: - Hôm nay chúng ta sẽ xếp quần áo nhé?
- Vì sao phải gấp quần áo gọn gàng?
- Để gấp quần áo thẳng, đẹp phải làm như thế nào?
Tôi gấp mẫu sau đó cho trẻ thức hành gấp quần áo, khi trẻ thực hiện tôi quan sát và có thể hướng dẫn lại trẻ nêu trẻ gấp chưa đẹp. Sau khi trẻ gấp xong tôi nhận xét, khen trẻ.
Ví dụ 3: Một điều quan trọng trẻ cần học chính là trách nhiệm. Tôi cũng áp dụng dạy trẻ từ từ, và một lần nữa, tôi là tấm gương sáng. Để dạy trẻ biết cất dọn đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định hay giữ gìn vệ sinh trường lớp sạch sẽ, … tôi phải thể hiện cho trẻ thấy tôi luôn hoàn thành trách nhiệm đó.
- Hàng ngày sau mỗi tiết học tôi luôn cất đặt đố chơi đúng nơi quy định. Cất đồ dùng cá nhân gọn gàng ngăn nắp
- Hoạt động ngoài trời “Quan sát bồn hoa” tôi cho trẻ quan sát và trong bồn cây có giấy vụn, rác tôi lấy bỏ vào thùng rác và khuyến khích trẻ làm.
Ví dụ 4: Trước mỗi giờ ăn hay giờ đi vệ sinh tôi luôn nhắc trẻ phải rửa tay sạch sẽ và giải thích cho trẻ biết được ý nghĩa của việc làm ấy.
+ Ngoài ra, ở trường tôi cũng dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
4. Xác định nhiệm vụ cơ bản và trách nhiệm trong việc dạy trẻ kỹ năng sống
* Giáo viên có thể làm được gì để dạy kỹ năng sống cho trẻ? Tôi luôn đặt câu hỏi như vậy cho bản thân và tôi nhận thấy được để dạy được kỹ năng sống cho trẻ tôi cần phải:
- Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, bản thân cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
- Thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
- Giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ.
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huyng những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
5. Tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống trong gia đình:
- Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường. Tôi thấy rằng, một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong môi trường gia đình của trẻ. Cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến trường, khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.
- Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau. Tôi giải thích cho phụ huynh hiểu một điều quan trọng con trẻ cần học chính là trách nhiệm. Cha mẹ nên dạy bé từ từ, và chính cha mẹ phải là tấm gương sáng.
- Ở thế kỷ trước, trẻ em được khai thác như một nguồn lao động của gia đình. Chúng có thể làm việc trong các nhà xưởng, trang trại, thậm chí nhiều nhà máy vẫn thuê con trẻ làm công. Trong thời đại mới, trẻ em "biết ăn ngủ biết học hành là ngoan” nhưng không vì thế mà các bậc cha mẹ để con không làm gì cả. Việc nhà đầu tiên phụ huynh cần hướng dẫn bọn trẻ chính là giúp bé tự chăm sóc và bảo quản các đồ đạc của mình. Trẻ phải có trách nhiệm thu dọn đồ chơi hay thu dọn những gì trẻ bày bừa ra. Điều đó giúp con trẻ biết gắn bó và biết nâng niu các đồ vật hơn, đồng thời cũng sống có trách nhiệm hơn. Tốt hơn hết là dạy trẻ làm những việc này một cách có tổ chức và ý thức.
Trong cuộc sống hàng ngày, nên dạy trẻ cách xử lý những tình huống bất trắc mà trẻ có thể gặp phải dưới hình thức trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở giúp trẻ tìm ra cách giải quyết. Không áp đặt , cấm đoán trẻ .
Thay vì “ Con không được làm thế này, thế kia “ thì ta nên đưa ra các tình huống cụ thể thông qua thực tế giúp trẻ hiểu tại sao không được làm như thế, nếu xảy ra thì sẽ phải làm như thế nào ?
Chính từ những suy nghĩ tìm cách xử lý ở các tình huống cụ thể đó giúp trẻ dần có kỹ năng suy đoán, biết áp dụng những kiến thức kinh nghiệm mình đã có để tìm cách giải quyết . Từ đó trẻ có thể vận dụng với những tình huống khác trong thực tế hàng ngày mà trẻ gặp . Dần hình thành cho trẻ những kinh nghiệm, những kỹ năng biết bảo vệ mình trong cuộc sống sau này.
Một điều quan trọng mà các bậc cha mẹ nên dạy cho con đó là kỹ năng sinh tồn. Cần dạy trẻ cách thoát hiểm, cách giúp bố mẹ làm việc nhà như trải chiếu để ăn cơm, nhặt rau giúp mẹ, tự phục vụ bản thân, … Dạy con các kỹ năng thoát hiểm và cách phòng tránh tai nạn trong nhà là việc quan trọng hàng đầu.
Nếu các bậc phụ huynh dạy trẻ các kỹ năng sống đó tốt sẽ nhận được sự giúp đỡ trong tất cả công việc trẻ có thể làm: Trẻ cần tự dọn dẹp phòng của chúng, tự đánh răng rửa mặt, tự mặc quần áo và làm một số việc khi gia đình chuẩn bị bữa ăn.
Và các bậc cha mẹ hãy luôn khuyến khích trẻ “Con có thể làm việc này”, trẻ sẽ làm nhiều việc nhanh chóng hơn và tốt hơn.
Trẻ học cách tự lập cũng có ích cho việc học các kiến thức học. Những điều trẻ đang học sẽ có thể được áp dụng vào những việc bé đang làm. Ví dụ, khi trẻ tìm hiểu việc làm bánh chưng, sự hiểu biết các phép đo trong toán học sẽ có ích nhiều hơn.
Qua đó lòng tự trọng của bé sẽ được nuôi dưỡng. Lòng tự trọng thực sự xuất phát từ làm những việc cho chính mình. Bé sẽ có đủ lòng can đảm và tự tin để thử làm những điều mới hay những việc khó khăn hơn..
Với suy nghĩ “Việc nhà là việc vặt, đã có người giúp việc lo”, nhiều cha mẹ đã bỏ qua phần giáo dục siêu quan trọng này. Chưa tính đến việc cha mẹ bỏ qua lợi ích của những công việc nhỏ nhặt mà chỉ nói đến khả năng thích ứng trong mọi hoàn cảnh, con kém hẳn so với các bạn. Khi cha mẹ đi vắng, thay vì phải canh cánh lo quay về để chuẩn bị bữa ăn cho con, cha mẹ có thể yên lòng vì con biết làm mọi thứ rồi. Đó là lợi thế đầu tiên của kỹ năng này.
Ngoài ra, những việc nhà nho nhỏ được con đảm nhận sẽ giúp giảm áp lực công việc cho mẹ. Quét nhà, dọn nhà, lau bàn ghế … là việc bé 5 – 6 tuổi làm được rồi. Để con làm vừa giúp con hiểu sự vất vả của cha mẹ, vừa giúp con hoàn thiện kỹ năng sống cơ bản, đó là lợi ích ai cũng nhìn thấy.
- Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời.
- Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống. Nếu cha mẹ múôn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trứơc hết cần đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
- Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
- Kết luận
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
1. Kết quả dạt được:
Bảng kết quả
TT |
Tiêu chí |
Đầu năm |
Cuối năm |
Số trẻ |
Tỷ lệ |
Số trẻ |
Tỷ lệ |
1 |
Mạnh dạn tự tin |
19 |
53% |
36 |
100% |
2 |
Kỹ năng hợp tác |
15 |
42% |
30 |
83% |
3 |
Kỹ năng thích khám phá học hỏi |
20 |
56% |
33 |
92 % |
4 |
Kỹ năng trong giao tiếp |
21 |
58% |
32 |
89% |
5 |
Kỹ năng tự phục vụ |
24 |
67% |
36 |
100% |
6 |
Nghi thức văn hóa trong ăn uống |
19 |
53% |
34 |
94% |
2. Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
- Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở lớp.
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp; số lượng phụ huynh học sinh tham gia dự họp phụ huynh đầu năm đông.
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá.
- Cha mẹ cảm thấy mản nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường, cha mẹ thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi.
3. Về phía giáo viên
Bản thân chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi của trẻ, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp.Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn.
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ trẻ.
2. Những kết luận trong quá trình nghiên cứu, áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
* Một số điều ngừơi lớn cần làm giúp trẻ rèn luyện kỹ năng sống:
Điều cần làm trước hết là cô giáo và cha mẹ trẻ phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an tòan cho trẻ.
Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn.
Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành thông qua chơi, chơi để lớn lên. Vì thế, ngừơi lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra nhiều cách học khác nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là nền tảng tạo nên sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui mà vừa có ý nghĩa. Đây chính là những kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này.
Thường xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một cách hăng hái bằng nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về những thông tin mà cô giáo, cha mẹ mới tìm thấy cho trẻ thấy rằng học lúc nào cũng vừa vui, vừa thử thách
Kể chuyện cho trẻ hàng ngày bằng phương pháp mưa dầm thấm lâu: Cô giáo, cha mẹ hãy dành thời gian mỗi ngày để kể cho trẻ nghe những câu chuyện, dành thời gian trò chuyện với con trẻ vì chuyện là kho báu của dân tộc, kể chuyện cổ tích là con đường ngắn nhất, đơn giản hiệu quả nhất giáo dục nhân cách cho trẻ.
Để hình thành và phát triển ở trẻ những thói quen, nghi thức văn hóa trong ăn uống cần thiết không chỉ có sự tập luyện mà còn cần sự thống nhất những cách thức và phương thức giữa gia đình và lớp mầm non. Chỉ có sự kiên trì, nhẫn nại, sự đồng cả, sự quan tâm, chú ý và sự giúp đỡ quý báu của người lớn mới giúp trẻ vượt qua những khó khăn, trở ngại, mới tạo được một bầu không khí thân ái, đầm ấm cần thiết trong bữa ăn.
* Một số điều ngừơi lớn cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống:
- Không hạ thấp trẻ: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng trẻ là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân trẻ.
- Không doạ nạt trẻ: Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của trẻ tốt hơn.
- Không bắt trẻ hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với trẻ vì nếu trẻ cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở trẻ sẽ phát triển cảm giác hối lỗi, ngược lại trẻ
- Không bao bọc trẻ một cách thái quá sẽ làm trẻ yếu đuối: Cha mẹ thường không đánh giá đúng khả năng của trẻ cho rằng trẻ còn nhỏ sẽ không làm được một điều gì cả.
- Không nên giáo huấn quá nhiều vì ảnh hửơng của những ngôn ngữ đó làm cho đứa trẻ ngưng hoạt động, nhưng trong thực tế trẻ không thể ngưng hoạt động sẽ dần làm cho trẻ nghĩ rằng mình là ngừơi có tội, làm nảy sinh tính tự ti, đánh giá tiêu cực về bản thân sau này.
- Không tước đoạt của trẻ quyền làm trẻ con hãy để cho trẻ được làm trẻ con thật sự , không nên cung cấp lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của não bộ. Hãy gíup trẻ lớn lên là chính nó.
- Không thúc giục trẻ, sự nóng giận của người lớn đối với những sai sót của trẻ không những làm trẻ ăn mất ngon, mất hứng thú đối với đồ ăn, mà còn gây cản trở nghiêm trọng cho trẻ trong việc hình thành những thói quen ăn uống văn hóa.
3. Đề xuất:
Trên đây là một số kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi mà tôi đã rút ra trong quá trình giảng dạy. Rất mong được sự đóng góp chân thành của BLĐ và đồng nghiệp.