1
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………..1
1. Cơ sở lí luận:………………………………………………………….1
2. Cơ sở thực tiễn:……………………………………………………….1
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………….2
1. Tìm hiểu thực trạng:………………………………………………….2
2. Tổ chức thực hiện:…………………………………………………….3
3. Biện pháp thực hiện: …………………………………………………4
III. KẾT QUẢ....................................................................................................19
1. Về phía trẻ:.........................................................................................19
2. Về phía giáo viên:................................................................................21
3. Về phía phụ huynh:.............................................................................21
IV. KẾT LUẬN...........................................................................................................21
1 . Bài học kinh nghiệm:...........................................................................21
2. Khuyến nghị..........................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….23
ỨNG DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI, THÍ NGHIỆM
TRONG HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
“Xung quanh ta có bao điều kì lạ, mà sao ta biết chẳng bao nhiêu”. Đó là
một câu hát quen thuộc với mọi người. Câu hát đã nói lên thế giới xung quanh ta
rất bao la rộng lớn. Nó bao gồm tất cả sự vật, hiện tượng, cây cỏ, con vật, các vấn
đề về tự nhiên và xã hội. Chúng ta không thể đi đến tất cả mọi nơi, không thể tận
mắt nhìn thấy hết thảy các sự vật, hiện tượng nhưng con người luôn có khát vọng
muốn được khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh ta, đó chính là môi trường
sống của con người. Nó lại là một kho tàng kiến thức vô tận ảnh hưởng tới sư tồn
tại và phát triển của con người, cho nên con người luôn có nhu cầu khám phá thế
giới xung quanh thông qua các hoạt động để có thể có những hiểu biết về thế giới,
cải tạo thế giới nhằm phục vụ chính cuộc sống của con người.
Nhu cầu tìm hiểu, khám phá về thế giới xung quanh của con người đã
xuất hiện ngay từ khi còn nhỏ. Từ khi trẻ ra đời đã muốn ngắm nhìn xung quanh
và nhu cầu khám phá hình thành. Càng lớn, nhu cầu đó càng tăng lên. Nhưng vì
trẻ nhỏ chưa có vốn sống, vốn kinh nghiệm, trẻ chưa tự khám phá về thế giới
xung quanh nên người lớn phải giúp đỡ trẻ, phải tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia
vào các hoạt động nhằm cho trẻ làm quen, khám phá về môi trường xung quanh.
Khi trẻ được làm quen với thế giới xung quanh sẽ giúp trẻ tích lũy được kiến
thức, kĩ năng về tự nhiên và xã hội, giúp trẻ được phát triển về các mặt: Đức –
Trí - Thể - Mĩ - Lao động. Thông qua việc tổ chức cho trẻ được hoạt động khám
phá, trẻ sẽ được phát triển toàn diện các mặt, nhân cách được hình thành và phát
triển. Đây là mục đích hàng đầu của giáo dục nói chung và giáo dục mầm non
nói riêng. Bởi vậy, việc trẻ được khám phá, được làm quen với môi trường xung
quanh là một việc làm thiết thực, rất cần thiết và cần đưa đến có hệ thống từ độ
tuổi nhà trẻ tới các lứa tuổi tiếp theo. Dựa trên đặc điểm tâm lí, nhận thức của
trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ Mẫu giáo lớn nói riêng, các nhà tâm lí học, giáo
dục học đã chỉ ra rằng, quá trình tìm hiểu môi trường xung quanh được tổ chức
mang tính chất khám phá, trải nghiệm theo phương thức “học mà chơi, chơi mà
học”, là phù hợp hơn cả đối với trẻ. Đặc biệt, việc sử dụng trò chơi, thí nghiệm
đơn giản luôn tạo cho trẻ sự hứng thú, kích thích trẻ tích cực hoạt động, phát
triển ở trẻ tính tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi, phát triển óc quan
sát, phán đoán và các năng lực hoạt động trí tuệ,….từ đó mà nâng cao hiệu quả
của quá trình tìm hiểu môi trường xung quanh.
2. Cơ sở thực tiễn:
Tổ chức cho trẻ hoạt động khám phá quanh từ lâu đã được đưa vào
chương trình Giáo dục Mầm non. Trong thực tế, các giáo viên Mầm non đã rất
quan tâm, đã biết cách tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động khám phá và
đạt được một số hiệu quả nhất định. Đó là trẻ đã có những kiến thức, hiểu biết
về một số sự vật, hiện tượng xung quanh như biết tên gọi, đặc điểm, lợi ích của
các sự vật, hiện tượng, thông qua đó cũng đã hình thành cho trẻ một số kĩ năng
nhằm phát triển toàn diện cho trẻ. Thực tiễn đổi mới giáo dục mầm non hiện nay
cũng cho thấy, trò chơi, thí nghiệm đơn giản đã dần được sử dụng như một
phương pháp, phương tiện hữu hiệu trong quá trình tổ chức cho trẻ khám phá,
tìm hiểu môi trường xung quanh . Nhưng thực tế cũng tồn tại một vấn đề khác,
đó là các giáo viên thường rất ngại việc tổ chức hoạt động khám phá cho trẻ,
nhiều giáo viên chỉ nghĩ đơn thuần các hoạt động khám phá chỉ tổ chức trong
giờ hoạt động chung và rất khó khăn trong việc tìm các hoạt động phù hợp để trẻ
tích cực khám phá và lĩnh hội kiến thức. Số lượng trò chơi chưa nhiều, nội dung
nghèo nàn, ít hấp dẫn đối với trẻ, các trò chơi, thí nghiệm lại được thiết kế sẵn
mang nhiều tính khuôn phép. Giáo viên mới sử dụng các trò chơi ít ỏi trên “tiết
học”, trẻ ít được tổ chức làm thí nghiệm. Giáo viên còn lúng túng trong việc
thiết kế và sử dung trò chơi, thí nghiệm linh hoạt, mang tính phát triển, phù hợp
với đặc điểm cá nhân trẻ và điều kiện thực tiễn của trường lớp, địa phương. Từ
đó dẫn tới các kiến thức của trẻ nắm bắt được chưa chắc chắn, trẻ hay quên, hay
nhầm lẫn giữa các sự vật, hiện tượng, các kĩ năng của trẻ chưa được rèn luyện
dẫn tới hiệu quả giáo dục chưa cao. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta chưa hình
thành được một thói quen chủ động, thích tự trải nghiệm, tự khám phá về thế
giới xung quanh. Thói quen ấy lúc này đây chỉ là sợi tơ nhện nhưng mai này nó
sẽ là sơi dây cáp của cuộc đời, sẽ là “cây đời” để mỗi người sáng tạo, đi tìm
chân lí. Đứng trước vấn đề trên, là một giáo viên Mầm non đã công tác trong
ngành hơn 10 năm và nhiều năm đứng lớp Mẫu giáo lớn, tôi đã đúc kết để thiết
kế, sưu tầm và ứng dụng một số trò chơi, thí nghiệm trong hoạt động khám
phá của trẻ Mẫu giáo lớn. Các trò chơi, thí nghiệm này đã được tiến hành ở lớp
A1, trường mầm non Hoa Hồng và thu được những kết quả đáng kể.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tìm hiểu thực trạng:
1.1 Thuận lợi:
- BGH nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ lớp về mọi mặt, trang bị đầy đủ
các đồ dựng đồ chơi theo Thông tư 02/2010/TT-BGDĐT ngày 10/02/2010 về
danh mục đồ dùng - đồ chơi - thiết bị dạy học tối thiểu trong trường mầm non.
- Giáo viên được đào tạo chính quy, có chuyên môn, có lòng say mê tìm
tòi, sáng tạo, thường xuyên trau giồi những kiến thức về môi trường xung
quanh. Bên cạnh đó là khả năng tổ chức cho trẻ tích cực hoạt động có phần
thuận lợi hơn.
- Trẻ trong lớp có nhiều cháu mạnh dạn, hào hứng tham gia các hoạt
động, khả năng ghi nhớ tốt.
- Đa số phụ huynh là công chức nên rất ủng hộ và sát sao với việc rèn kĩ
năng cho trẻ.
1.2. Khó khăn:
- Nhận thức của trẻ không đồng đều.
- Một số đồ dùng đồ chơi để tổ chức cho trẻ chơi, thí nghiệm khám phá
môi trường xung quanh còn ít và đơn điệu.
- Diện tích phòng nhóm còn chật hẹp việc xây dựng đa dạng một số góc
chơi còn hạn chế.
2. Tổ chức thực hiện:
Để có thể thiết kế và sưu tầm được những trò chơi và thí nghiệm có
chất lượng, hiệu quả với trẻ, tôi đã dựa trên 1số quy tắc sau:
- Đảm bảo tính mục đích: Trò chơi học tập và thí nghiệm về môi trường
xung quanh cần được thiết kế hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non
nói chung, mục tiêu trẻ Mẫu giáo lớn hoạt động khám phá nói riêng. Vì vậy, các
yếu tố của trò chơi học tập và các thí nghiệm hoạt động khám phá cần hướng và
làm giàu biểu tượng về sự vật, hiện tượng, phát triển kĩ năng nhận thức và hành
động, giáo dục trẻ có thái độ đúng đắn với môi trường xung quanh.
- Đảm bảo tính phù hợp: Cần thiết kế trò chơi học tập và thí nghiệm hoạt
động khám phá phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ Mẫu giáo lớn nói chung
và đặc điểm nhận thức của trẻ về hoạt động khám phá nói riêng.
- Đảm bảo được tính hấp dẫn để phát huy được tính tích cực, tự do, tự
nguyện tham gia vào trò chơi, thí nghiệm của trẻ.
- Đảm bảo tính phổ biến: Có thể sử dụng rộng rãi ở các địa phương, các
trường khác nhau, dễ sử dụng, vật liệu, đồ chơi đơn giản, dễ kiếm, dễ làm.
- Đảm bảo tính đa dạng:
+ Đa dạng về nội dung để hình thành ở trẻ không chỉ kiến thức, kĩ năng
môi trường xung quanh mà còn giáo dục trẻ cả thái độ nhân văn đối với môi
trường đồng thời có thể lồng ghép nội dung các lĩnh vực khác vào trò chơi, thí
nghiệm một cách nhẹ nhàng như đong, đo, đếm, nhận biết chữ số, hát, vận động.
+ Đa dạng về hình thức tổ chức: cả lớp, theo nhóm, cá nhân.
Tôi cũng đặt ra một số yêu cầu sau đối với việc thiết kế và sưu tầm các
trò chơi học tập, thí nghiệm đơn giản cho hoạt động khám phá cho trẻ Mẫu
giáo lớn:
- Với trò chơi học tập:
+ Cần đảm bảo các thành tố cấu trúc cơ bản của trò chơi học tập.
+ Cần đảm bảo cho trẻ được chơi vui vẻ, tự do, tự nguyện.
+ Các yếu tố của trò chơi hấp dẫn: Đặt tên hấp dẫn, luật chơi rõ ràng, đơn
giản, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện đối với trẻ, phương tiện để chơi sinh động,
hấp dẫn, có thể thu hút trẻ cùng tham gia chuẩn bị.
+ Cần theo hướng mở đáp ứng các mức độ nhận thức khác nhau của trẻ.
- Với các thí nghiệm:
+ Phải đảm bảo tạo ra sự thay đổi rõ ràng để giúp trẻ nhận biết.
+ Dễ thực hiện, không đòi hỏi các điều kiện đặc biệt, là những hiện tượng
thường diễn ra trong cuộc sống xung quanh trẻ.
+ Phải đảm bảo tính nhân văn, không gây thiệt hại cho vật làm thí
nghiệm, không làm tổn thương đến tâm hồn của trẻ.
+ Thí nghiệm cần được tiến hành trong khoảng thời gian nhất định, không
thiết kế các thí nghiệm có thời gian kéo dài quá lâu vì dễ làm trẻ quên mất
những gì xảy ra ban đầu.
+ Phải đảm bảo an toàn cho trẻ trong quá trình làm thí nghiệm (an toàn về
dụng cụ, vật liệu,…).
3. Biện pháp thực hiện:
Để các kiến thức về môi trường xung quanh và sự ham thích khám phá đến
với trẻ một cách tự nhiên, tôi đã triển khai song song và đồng bộ những biện
pháp sau:
3.1. Biện pháp 1: Thiết kế và sưu tầm 1 số trò chơi học tập nhằm tạo hứng
thú cho trẻ hoạt động khám phá.
1.1 Trò chơi 1: Cây này thiếu gì?
* Mục đích
- Củng cố biểu tượng của trẻ về các bộ phận của cây.
- Rèn luyện kĩ năng vẽ, tô màu cho trẻ.
* Chuẩn bị
- Các bức tranh vẽ mô hình cây thiếu một hoặc một số bộ phận .
- Bút chì hoặc bút sáp màu.
* Cách chơi : Chơi theo nhóm, cả lớp hoặc cá nhân
- Cách 1: tranh vẽ cây còn thiếu các bộ phận và các bộ phận của cây được
vẽ rời. Trẻ xem tranh và nối tranh cây với bộ phận còn thiếu đúng vị trí của bộ
phận trên cây. Sau đó, trẻ có thể tô màu bức tranh vẽ cây.
- Cách 2: Tranh vẽ cây còn thiếu các bộ phận. Trẻ quan sát, phát hiện bộ
phận còn thiếu của cây. Trẻ vẽ (hoặc cắt, dán) thêm các bộ phận thiếu. Tô màu
và vẽ thêm các chi tiết khác để tạo ra bức tranh đẹp.
1.2. Trò chơi 2: Tìm lá cho cây
* Mục đích: Trẻ nhận biết và phân biệt được các loại lá cây. Qua trò chơi
này, có thể kết hợp cho trẻ lao động nhặt lá rụng.
* Chuẩn bị : 4 thùng các tông
* Cách chơi : Chơi theo tổ
Cô chia lớp thành 3 hoặc 4 tổ, mỗi tổ sẽ nhặt một loại lá cây rụng ở sân
trường theo yêu cầu của cô trong một khoảng thời gian nhất định. Khi hết thời gian,
cô giáo cùng các bạn trong lớp kiểm tra kết quả của từng đội. Đội nào nhặt đúng sẽ
chiến thắng (với trò chơi này thì chỉ cần nhặt đúng, không tính đến số lượng).
1.3. Trò chơi 3: Cây cần gì để sống
* Mục đích:
- Củng cố hiểu biết của trẻ về các nhu cầu cần thiết đẻ cây lớn lên và phát triển.
- Phát triển phản xạ nhanh, nhạy ở trẻ
* Chuẩn bị: Tờ giấy to ở giữa có gắn hình cây, xung quanh có các băng
dính gai; tranh rời, đằng sau có băng dính (các tranh rời vẽ hình mặt trời, bình
tưới nước, phân bón, các hình ảnh con người chăm sóc cây cối…).
* Cách chơi: Chơi theo nhóm hoặc cá nhân.
Cô phát cho trẻ (nhóm trẻ) rổ đựng tranh rời. Trẻ chọn các bức tranh mô tả
những việc cần làm đối với cây, dán vào các băng dính gai và kể về tranh vừa dính.
1.4. Trò chơi 4: Không cùng loại
* Mục đích: Rèn luyện óc quan sát, sự nhanh nhạy của trẻ. Phát triển khả
năng khái quát đơn giản và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
* Chuẩn bị: Các bức tranh có hình vẽ hoặc ảnh chụp các đối tượng là rau,
hoa, quả.
* Cách chơi: Chơi cá nhân hoặc chơi theo nhóm.
- Cách 1: Cô xếp đối tượng (4 - 5 đối tượng), trong đó có 1đối tượng không
cùng nhóm với các đối tượng còn lại. Trẻ phải tìm nhanh đối tượng không cùng
nhóm với các đối tượng còn lại và giải thích tại sao lại chọn như thế.
- Cách 2: Tranh vẽ các loại hoa (quả) trong đó có 1đối tượng không cùng
loại. Trẻ phải tìm nhanh đối tượng không cùng loại. Trẻ chỉ và gọi tên
(hoặc dùng bút chì gạch đối tượng không cùng loại) và giải thích.
1.5. Trò chơi 5: Đây là ai
* Mục đích: Củng cố sự nhận biết của trẻ về các con vật thông qua vận
động của chúng. Rèn luyện ở trẻ kĩ năng phân tích và làm việc theo nhóm.
* Chuẩn bị:
- Trẻ có tâm thế thoải mái.
- Các bông hoa nhỏ bằng giấy hoặc nhựa vơi các màu sắc khác nhau (đỏ,
vàng) để tính điểm cho mỗi đôi khi đoán đúng.
* Cách chơi: Cô chia lớp thành 2 đội chơi (mỗi đội khoảng 6-8 trẻ),
những trẻ còn lại làm cổ động viên và chơi ở lượt sau. Một đội mô phỏng hành
động của con vật, đội kia quan sát và đoán đúng tên con vật mà đội bạn vừa mô
phỏng. Đội sau không được mô phỏng và lặp lại hành động của con vật mà đội
trước đã mô phỏng.
Hai đội phải bốc thăm xem đội nào làm động tác trước và phải có một
thời gian để các trẻ trong đội thảo luận đi đến thống nhất xem đội mình mô
phỏng con vật nào. Đội bạn sau khi quan sát, cũng cần thảo luận để đưa ra câu
trả lời chính xác.
1.6. Trò chơ 6: Nói ngược
* Mục đích:
- Cùng cố hiểu biết về đặc điểm của các con vật.
- Giúp phát triển từ trái nghĩa, phát triển tư duy cho trẻ.
* Chuẩn bị: Tranh vẽ các con vật (nếu trẻ chơi thành thạo có thể không
cần đồ chơi).
* Cách chơi: Chơi theo cá nhân hoặc nhóm. Cô giơ bức tranh và nói tên
con vật hoặc bộ phận con vật,trẻ nói từ mô tả đặc điểm ngược lại của con vật.
Ví dụ: Con voi - nhỏ bé
Tai thỏ - ngắn
Đuôi thỏ - dài
Rùa – nhanh
Sóc – chậm
Khi trẻ chơi thành thạo, cô không cần giơ tranh nữa mà chỉ việc nói tên
con vật, trẻ nói đặc điểm. (Có thể cho trẻ đọc bài đồng dao nói ngược trước khi
tham gia trò chơi này để gây hứng thú cho trẻ tham gia vào trò chơi.)
1.7. Trò chơi 7 : Tạo nhóm
* Mục đích :
- Củng cố kĩ năng phân nhóm, phân loại đồ vật.
- Phát triển chức năng kí hiệu tượng trưng.
* Chuẩn bị :
- Tranh lôtô (ảnh) các loại hoa, lá, quả có màu sắc khác nhau.
- 3 rổ có màu xanh, đỏ, vàng (nếu rổ giống nhau có thể dán kí hiệu xanh,
đỏ, vàng ở phía ngoài)
* Cách chơi : Chơi theo nhóm hoặc cá nhân.
- Cách 1 : Cô cho trẻ quan sát những thứ đã chuẩn bị và gọi tên những thứ
đó. Sau đó, yêu cầu trẻ hãy xếp lá vào rổ màu xanh, hoa vào rổ màu đỏ và quả
vào rổ màu vàng.. Trẻ nào (nhóm nào) xếp đúng và xong trước là trẻ đó (nhóm
đó) thắng.
- Cách 2 : Nâng cao mức độ khó. Cho trẻ thảo luận để phân nhóm các thứ
đã chuẩn bị theo dấu hiệu (màu sắc, hình dạng, chức năng của chúng...) và tự
xếp. Cô đến hỏi ý tưởng và giúp trẻ tự kiểm tra, đánh giá kết quả.
1.8. Trò chơi 8 : Ai nhanh hơn
* Mục đích : Rèn luyện óc quan sát, sự nhanh nhạy của trẻ. Phát triển khả
năng khái quát hóa đơn giả và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
* Chuẩn bị : Các bức tranh có hình vẽ hoạc ảnh chụp các đối tượng là
rau, hoa, quả.
* Cách chơi : Chơi cá nhân hoặc theo nhóm.
- Cách 1 : Cô xếp đối tượng (4 - 5 đối tượng), trong đó có 1đối tượng
không cùng nhóm với đối tượng còn lại. Trẻ phải tìm nhanh các đối tượng
không cùng nhóm với các đối tượng cò lại và giải thích tại sao lại chọn như vậy.
- Cách 2 : Tranh vẽ các loại hoa (quả...) trong đó có một đối tượng không
cùng loại. Trẻ chỉ và gọi tên (hoặc dùng bút chì không cùng loại) và giải thích.
1.9. Trò chơi 9: Xếp theo thứ tự
* Mục đích : Củng cố hiểu biết của trẻ về quá trình chăm sóc và phát triển
của cây, củng cố biểu tượng về số và phép đếm.
- Phát triển ở trẻ khả năng phán đoán, trí tưởng tượng sáng tạo; phát triển
ngôn ngữ mạch lạc.
- Giáo dục trẻ tình cảm xã hội.
* Chuẩn bị : Mỗi đội đều có một bộ tranh nói về quá trình phát triển của
các loại cây và chăm sóc cây (ví dụ: tranh gieo hạt, tranh chăm sóc cây, tranh
cây ra hoa, kết quả, tranh hái quả, tranh mang quả biếu bà,...).
- Bộ chữ số 1, 2, 3, 4, 5, 6.
- Bảng gài gắn xung quanh lớp.
* Cách chơi :
- Cách 1 : Cô để các bức tranh (gieo hạt, chăm sóc cây, cây ra hoa, cây có
quả chín) vào trong một cái rổ. Sau đó, yêu cầu trẻ xếp các bức tranh theo trình
tự phát triển của cây.
- Cách 2 : Cô gắn các bức tranh lên bảng không theo thứ tự (theo chiều
dọc). Yêu cầu trẻ xếp lại cho đúng thứ tự, tìm số và gắn và bên cạnh theo trình
tự phát triển của cây.
Khi tất cả các đội thực hiện xong, cô lần lượt cho các đội nói về sự phát
triển của cây mình vừa thực hiện.
Hai cách này có thể chơi theo nhóm hoặc cá nhân, có thể chơi dưới hình
thức thi đua “Thi xem đội nào nhanh” ...
- Cách 3 : Nâng cao mứ độ khó của 2 trò chơi trên. Sau khi cho trẻ chơi
xếp theo thứ tự, cô tiếp tục cho trẻ chơi TC “Thi xem ai đoán giỏi”. Cô nói với
trẻ : “Sau 4 bức tranh này, cô còn có các bức tranh khác nữa. Bây giờ các con
hãy suy nghĩ và đoán thử xem đó là bức tranh gì? Các con tự đoán nhưng không
được cho bạn biết”. Cô sẽ phát cho mỗi bạn một tờ giấy để con vẽ bức tranh dự
đoán của con vào mặt sau tờ giấy. Cô đến và viết ý tưởng của trẻ và mặt sau của
tờ giấy. Khi trẻ vẽ xong, cô cho trẻ chia sẻ ý tưởng cho nhau. Cô đưa bức tranh
của cô ra : tranh vẽ bé mang quả đến biếu bà, tranh sản phẩm chế biến từ quả.
Trẻ nào có ý tưởng hay, cô thưởng 1 quả hoặc 1 kẹo. Sau đó, cô và trẻ tiếp tục
chơi “Thi kể chuyện giỏi”. Cô và trẻ cùng xây dựng các câu chuyện dựa vào các
bức tranh đã xếp theo thứ tự. Hình thức chơi “Kể chuyện nối tiếp”, trẻ này kể
nối tiếp với trẻ kia, cô ghi lại câu chuyện của trẻ.
1.10. Trò chơi 10 : Tháp dinh dưỡng kì diệu
* Mục đích : Trẻ nhận biết các nhóm thực phẩm có lợi cho sức khỏe con người.
- Trau giồi kĩ năng phân loại các nhóm thực phẩm.
* Chuẩn bị : Giấy khổ lớn, giấy A4 một mặt, hộp cát tông, hình minh họa
cho 5 nhóm thức ăn: Dầu, mỡ, đường ; Sữa và các chế phẩm từ sữa; Thịt gia súc,
gia cầm, đậu và trứng; Rau quả; Gạo và bột mì....trên các tờ tạp chí, báo cũ.
Có thể kêu gọi phụ huynh cùng tham gia tìm kiếm, sưu tầm các hình minh
họa đó cùng trẻ và mang tới lớp.
*Cách chơi :
Cách 1 :
Trao đổi với trẻ về những thực phẩm trẻ ăn hàng ngày và giá trị dinh
dưỡng của chúng.
Nói cho trẻ biết cần ăn đủ 5 thành phần loại nhóm thực phẩm mới đảm
bảo dinh dưỡng để lớn lên thông minh và khỏe mạnh. Cho trẻ quan sát tháp dinh
dưỡng mà cô giáo đã làm sẵn từ giấy khổ lớn hoặc bìa cứng.
Yêu cầu trẻ tìm các bức tranh, hình in nằm trong 5 nhóm thức ăn cắt và
dán đúng vị trí trên tháp dinh dưỡng lớn chung của cả lớp bằng giấy khổ lớn
hoặc bằng hộp các tông lớn.
Cách 2 :
Trao đổi với trẻ về những thực phẩm trẻ ăn hàng ngày và giá trị dinh
dưỡng của chúng.
Nói cho trẻ biết cần ăn đủ 5 thành phần loại nhóm thực phẩm mới đảm
bảo dinh dưỡng để lớn lên thông minh và khỏe mạnh. Cho trẻ quan sát tháp dinh
dưỡng mà cô giáo đã làm sẵn từ giấy khổ lớn hoặc bìa cứng.
Yêu cầu trẻ tìm các bức tranh, hình in nằm trong 5 nhóm thức ăn cắt và
dán đúng vị trí trên tháp dinh dưỡng của riêng mình trên giấy A4.
Hỏi trẻ về kết quả.
1.11. Trò chơi 11 : Bánh xe mưa
* Mục đích :
- Củng cố sự nhận biết của trẻ về vòng quay luân chuyển của mưa.
- Phát triển khả năng suy luận; bước đầu phát triển tư duy logic cho trẻ.
* Chuẩn bị : Các mảnh rời mô tả các giai đoạn để tạo ra mưa : trời nắng,
nước bốc hơi, tích tụ thành đám mây mỏng màu xám trắng , đám mây đen, nước
nhỏ xuống từ những đám mây đen. Trò chơi được thực hiện sau khi cho trẻ thực
hiện các thí nghiệm về mưa và quan sát trời mưa.
* Cách chơi : Trên cơ sở làm thí nghiệm tạo mưa, cô cho trẻ miêu tả lại
các giai đoạn hình thành mưa và cùng cô thể hiện trên các bức tranh hình làm
bằng bìa cứng. Sau đó cho trẻ ghép lại làm thành bánh xe mưa.
Hoặc cô xếp các bức tranh không theo trật tự các giai đoạn tạo thành mưa
và yêu cầu trẻ xếp lại cho đúng.
1.12. Trò chơi 12: Hãy kể nhanh
* Mục đích :
- Củng cố hiểu biết của trẻ về thái độ và những việc con người cần làm
đối với cây cối.
- Rèn phản xạ nhanh.
- Cung cấp hiểu biết của trẻ về vấn đề trên ở mọi lúc, mọi nơi, trong một
tình huống.
* Chuẩn bị: Một quả bóng.
*Cách chơi: Cô và trẻ ngồi theo vòng tròn.Cô nói hiện tượng và ném
bóng đến trẻ nào trẻ đó nói hành động,công việc và thái độ cần thể hiện đối với
cây cối. Ví dụ, cô nói: Cây héo – trẻ nói: Tưới nước cho cây; cô nói: Cây có sâu
bọ phá hoại – trẻ nói: Bắt sâu,... Tương tự như vậy, trò chơi có thể sử dụng để
củng cố hiểu biết của trẻ về lợi ích, sản phẩm được làm ra từ cây cối, hoa.quả.
3.2. Biện pháp 2 : Thiết kế và sưu tầm các thí nghiệm :
3.2.1. Thí nghiệm 1: Trồng cây bằng gì.
* Mục đích: Giúp trẻ hiểu được ngoài cách trồng cây bằng hạt, ngưởi ta
có thể trồng cây bằng cành, bằng lá hoặc bằng củ.
* Chuẩn bị : 4 chậu hoặc một khoảng đất đủ độ ẩm tơi xốp để trồng cây,
một số dây khoai lang, cành cây trạng nguyên, một số lá bỏng, một số cành, lá
cây khác mà không thể trồng bằng cành, bằng lá được.
* Cách tiến hành: Cô tổ chức cho trẻ chơi “Gieo hạt nảy mầm”. Sau đó,
cô nêu câu hỏi : “Ngoài cách trồng cây bằng hạt, ta có thể trồng cây bằng cách
nào?”, trẻ trả lời. Tiếp treo cô sẽ nói với trẻ về thí nghiệm “Chúng ta sẽ đem
trồng 1số cành cây khoai lang, cây trạng nguyên, lá bỏng... và thử xem điều gì
xảy ra nhé?”. Cô cho trẻ dự đoán chậu nào có các mầm cây mọc lên. Hàng ngày,
cô cùng trẻ tưới nước đủ độ ẩm để cây phát triển, cho trẻ thay đổi diễn ra trong
các chậu cây trồng.
Khi thí nghiệm kết thúc, cô trò chuyện với trẻ về điều xảy ra và rút ra kết
luận : ngoài cách trồng cây bằng hạt, ta có thể trồng cây bằng cành hoặc bằng lá,
song không phải cây nào cũng trồng được bằng cành hoặc bằng lá và chỉ cho trẻ
thấy rễ và mầm sinh ra từ mắt của cành hoặc các mép lá.
Lưu ý : Với những loại cây trồng bằng lá, thì chỉ cần phủ một lớp đất
mỏng lên lá.
3.2.2. Thí nghiệm 2: Cây hút nước như thế nào?
* Mục đích : Giúp trẻ nhận biết được sự hút nước của cây.
* Chuẩn bị : Một lọ đựng nước trong
Một lọ đựng nước có pha màu đỏ.
Hai cành cây hoặc hoa (cúc trắng, huệ, cây cần tây)
* Cách tiến hành : Cô tổ chức chơi trò chơi nhẹ nhàng, gây hứng thú cho
trẻ. Sau đó, cô mang ra 2 lọ nước (1lọ đựng nước trong, 1lọ đựng nước đỏ) và 2
cành hoa cúc, huệ hoặc cần tây. Cô nêu câu hỏi để trẻ suy nghĩ và dự đoán kết
quả xảy ra khi cô cắm 2 cành cây vào 2 lọ nước này.
- Cắm 2 cành cây (hoa) vào 2 lọ nước.
- Sau 3 - 4 ngày cho trẻ quan sát, so sánh và nhận xét kết quả.
- Kết luận: Cành cây (hoa) cắm trong lọ nước màu, hoa và gân lá chuyển
sang màu hồng. Vì cây hút nước và nước màu đã được thân cây, cành cây vận
chuyển lên nhuộm màu cho lá và hoa.
3.2.3. Thí nghiệm 3: Nước chảy theo chiều nào
* Mục đích : Giúp trẻ hiểu được chiều chuyển động của nước.
* Chuẩn bị : 1 bình nước, 1 cái máng (bằng tre, nứa, nhựa...), 1 cái chậu
* Cách tiến hành: Cô đặt câu hỏi cho trẻ thảo luận, suy nghĩ và bàn tán
xem nước có chuyển động không? Nước chảy theo chiều nào? .
Cô cùng trẻ làm thí nghiệm: để 1 đầu ống máng cao, một đầu thấp và rót
nước vào giữa máng: cho trẻ quan sát và nhận xét: nước chảy theo chiều nào?
3.2.4. Thí nghiệm 4: Nước đá biến đi đâu?
* Mục đích : Giúp trẻ hiểu được sự tan ra của nước khi nhiệt độ ấm lên
(quá trình đá tan thành nước).
* Chuẩn bị : 1cục nước đá (bằng quả trứng vịt); hai cốc nước ấm (đổ vơi
khoảng nửa cốc từ 40ºC - 50ºC)
* Cách tiến hành :
Cho trẻ quan sát cục đá để trong khay đá.
- Cho trẻ sờ tay và thành 2 cốc nước ấm và để trẻ nhận xét xem thành cốc
như thế nào.
- Bỏ cục đá vào một trong hai cốc nước. Cho trẻ quan sát hiện tượng : cục
nước đá nhỏ dần rồi biến mất. Sau đó cho trẻ sờ tay vào hai thành cốc, so sánh,
nhận xét xem cốc nào lạnh hơn. Nước ở cốc nào nhiều hơn? Vì sao?
Cuối cùng đi đến kết luận:
+ Nước đá biến đi đâu? (Nước đá tan thành nước)
+ Tại sao có một cốc đầy hơn? Một cốc vơi hơn? (Cốc đầy là do nước đá
tan ra).
+ Tại sao sờ tay vào hai cốc thì có một cốc lạnh hơn, cốc ấm hơn? (Cốc
lạnh hơn là do nước đá tan ra làm giảm nhiệt độ trong cốc).
3.2.5. Thí nghiệm 5 : Tạo cầu vồng
* Mục đích : Giúp trẻ hiểu được hiện tượng cầu vồng sau cơn mưa.
* Chuẩn bị : Bình phun nước có chứa đầy nước hoặc một cốc thủy tinh
đựng nước và một tờ giấy trắng.
* Cách tiến hành: Cô đặt câu hỏi để trẻ chia sẻ kinh nghiệm : Sau cơn mưa
lại có nắng, chúng ta thường thấy hiện tượng gì? Cô cùng trẻ làm thí nghiệm:
Cách 1: Đứng quay lưng về phía mặt trời, phun nước từ vòi phun hoặc
bình phun ở độ nghiêng 45º, dùng tay quạt nhẹ để những tia nước vỡ ra, ta sẽ
quan sát thấy hiện tượng cầu vồng. (Lưu ý: xem cầu vồng phải đứng ngược
hướng ánh sáng)
Cách 2: Vào ngày nắng, có thể làm lấy cầu vồng bằng 1cốc thủy tinh đựng
nước. Đặt cốc nước lên tờ giấy trắng sao cho cốc bị chiếu nắng còn giấy ở trong
bóng râm. Ánh nắng xuyên qua cốc và phân làm bảy màu tạo nên cầu vồng.
Cho trẻ quan sát, nhận xét, cô giải thích cho trẻ hiểu : cầu vồng thường
xuất hiện sau cơn mưa mùa hè. Do sau cơn mưa, trong không khí chứa nhiều hạt
nước nhỏ li ti, ánh sáng chiếu vào những hạt nước nhỏ li ti đó và tạo nên hiện
tượng cầu vồng.
3.2.6. Thí nghiệm 6: Vì sao ngọn nến tắt.
* Mục đích : Trẻ nhận biết không khí làm cho nến cháy, không có không
khí thì nến sẽ tắt.
* Chuẩn bị : 2 cái cốc, hai cây nến, 1 tờ giấy bạc đã đục lỗ và một tờ giấy
bạc còn nguyên.
* Cách tiến hành:
Đặt 2 cây nến vào trong 2 cốc. Đốt nến cho trẻ thấy hai cây nến cùng
cháy.
Cho trẻ quan sát hai tờ giấy bạc đã chuẩn bị sẵn và cho trẻ đoán xem điều
gì sẽ xảy ra khi dùng 2 tờ giấy bạc đó bịt lên 2 cốc nến đang cháy.
Cô dùng 2 tờ giấy bạc bịt miệng 2 cốc nến.
Cho trẻ quan sát và nhận xét hiện tượng xảy ra (một ngọn nến tắt, một
ngọn nến tiếp tục cháy).
Cho trẻ thảo luận: Vì sao một ngọn nến tắt ?
Cô có thể giải thích cho trẻ : Cốc có nến đang cháy là cốc được bịt tờ giấy
bạc đục lỗ, không khí vẫn lọt được và bên trong cốc. Cốc có nến bị tắt bị bịt
bằng miếng giấy bạc kín, không khí không lọt được vào bên trong nên cây nến
bị tắt.
3.2.7. Thí nghiệm 7 : Sự biến đổi của màu sắc
* Mục đích : Trẻ biết sự kết hợp của hai màu cơ bản để tạo thành một
màu mới.
Trau giồi óc quan sát và khả năng suy luận
* Chuẩn bị : Ba hộp màu cơ bản, khay màu, bút lông, khăn lau bút.
Các mẩu vải vụn, khăn mặt màu trắng, vỏ chai nhựa...
* Cách tiến hành :
Đặt ba hộp màu cơ bản ở nơi trẻ có thể lấy được.
Mỗi trẻ một khay màu và bút lông
Cho trẻ về từng nhóm phán đoán về sự kết hợp của hai màu cơ bản và
màu mới tạo thành.
Cho trẻ thực hành pha màu tạo màu mới và nêu kết quả.
Trẻ ứng dụng các kiến thức đó vào nhuộm vải, vẽ tranh, chơi với nước.
3.2.8. Thí nghiệm 8 : Sự chuyển động và âm thanh
* Mục đích : Trau giồi kĩ năng quan sát, sự nhạy cảm của các giác quan
và khả năng dự đoán.
Kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ
* Chuẩn bị : Thước kẻ, dây, bóng bay đã thổi, chuông nhỏ, đài catxet nối
và loa, vỏ ốc biển.
* Cách tiến hành : Cô trao đổi với trẻ cách mà trẻ tạo ra âm thanh bằng
cơ thể mình: nói, giậm chân, vỗ tay...
Cho trẻ áp tai xuống sàn nhà, một trẻ khác dậm chân mạnh để thấy sàn
nhà rung chuyển mạnh nhẹ tùy thuộc cách mà trẻ giậm chân.
Bật đài và cho trẻ sờ vào loa, trẻ sẽ thấy loa rung và phát ra âm thanh ; khi
loa hết rung (đài tắt) thì âm thanh cũng sẽ hết. Cô rắc những hạt muối lên bàn và
cho trẻ áp tai xuống bàn, trẻ khác vỗ tay lên bàn lúc to, lúc nhỏ rồi trẻ nhận xét
(Những hạt muối sẽ nảy lên theo nhịp vỗ và âm thanh càng lớn, mặt bàn càng
rung mạnh).
Cho trẻ khám phá âm thanh của chuông, thước, tháo hơi trong quả bóng,
nghe ốc biển. Cho trẻ suy đoán và lí giải theo cách hiểu của trẻ,
Cô giải thích cho trẻ hiểu : Âm thanh được tạo ra là nhờ có sự chuyển
động (rung động). Chuyển động (rung động) càng to thì âm thanh càng lớn.
3.3. Biện pháp 3: Ứng dụng các trò chơi, thí nghiệm trong thực tế
Trong năm học 2013- 2014, việc đánh giá trẻ theo bộ chuẩn 5 tuổi được
triển khai đại trà ở các trường mầm non. Những trò chơi và thí nghiệm ở trên tôi
đã dùng trong nhiều hoạt động và nó cũng là một nội dung để tôi tiến hành đánh
giá theo các chỉ số. Các trò chơi đã thiết kế và sưu tầm có thể sử dụng trong giờ
hoạt động chung (ở giờ cho trẻ hoạt động khám phá, Làm quen Văn học, Làm
quen với Toán, Thể dục), hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều tùy theo điều
kiện tổ chức và nội dung cần dạy trẻ. Các trò chơi này cũng được sử dụng để
thiết kế các trò chơi mới phù hợp với các chủ đề khác nhau bằng cách thay đổi
nội dung yếu tố trò chơi .
Ở hoạt động chung, với các chủ đề khác nhau của giờ học hoạt động
khám phá, tôi đã sử dụng hầu hết các trò chơi này để gây hứng thú (Trò chơi 5
và trò chơi 6) khi trẻ chuẩn bị tìm hiểu về động vật ở chủ điểm “Thế giới tự
nhiên” và cũng là một công cụ để đánh giá CS92 (gọi tên các con vật theo đặc
điểm chung), khi trẻ đã biết để tham gia trò chơi “Nói ngược”. Cũng ở đây, ngôn
ngữ và tư duy của trẻ phát triển, vốn từ trái nghĩa trở nên phong phú hơn bao giờ
hết; còn trò chơi 5 sẽ giúp rèn luyện cho trẻ kĩ năng phân tích và làm việc theo
nhóm. Trò chơi này ta cũng có thể tiến hành chơi ở chủ điểm “Giao thông” với
bài học kí hiệu của của một số biển báo (đánh giá CS82); phương tiện giao
thông đường thủy, đường hàng không với các đối tượng là biển báo, phương tiện
giao thông thay vì các con vật như trong trò chơi 5 đã nêu. Với 2 trò chơi này, ta
cũng có thể mở rộng hơn đối tượng chơi, số lần chơi để chơi trong giờ hoạt động
ngoài trời hoặc hoạt động chiều rất hấp dẫn. Trẻ rất hào hứng tìm hiểu và cố
gắng đưa ra những kí hiệu gần gũi về những đặc điểm trái ngược của những con
vật, quả…để đội bạn đoán hoặc tìm con vật, quả đó dựa trên từ trái nghĩa đó. Và
hình ảnh một lớp học luôn sôi nổi mà vẫn có kỉ luật luôn diễn ra ở lớp tôi. Còn
khá nhiều trò chơi khác tôi thường sử dụng để làm trò chơi ở phần luyện tập
củng cố kiến thức cho trẻ sau khi học xong bài mới. Trò chơi1, trò chơi 3 trong
quá trình phát triển của cây. Và cũng thông qua trò chơi này, giáo dục trẻ yêu
thích cây cối, con vật quen thuộc (đánh giá CS 39). Chỉ số 39 cũng còn được
đánh giá thông qua trò chơi 12: Hãy kể nhanh. Hai trò chơi này cũng đã được tổ
chức chơi góc (góc tạo hình, góc thiên nhiên) và đã được trẻ chơi say sưa không
biết chán. Ở trò chơi 2, tôi đã tổ chức cho trẻ chơi thường xuyên trong hoạt động
ngoài trời. Ngoài việc trẻ biết ý nghĩa của các loài lá và quá trình rụng lá còn kết
hợp cho trẻ lao động nhặt lá rụng. Qua đó giúp cho trẻ luôn biết quan tâm, chia
sẻ công việc vất vả của bác lao công ở trường.
Trò chơi 4 “Không cùng loại” và trò chơi 8 “Ai nhanh hơn”, tôi đã sử
dụng để cho trẻ chơi ở khá nhiều chủ đề với hình thức và cách chơi tương tự, chỉ
thay đổi đối tượng trong trò chơi. Ở chủ đề “Trường mầm non”, với bài: “Lớp
học của bé”, có thể dán đối tượng không cùng nhóm trong đồ dùng đồ chơi của
bé Mẫu giáo lớn (cái bô, cái yếm dãi, dép có còi…không là đồ dùng cho bé lớp
lớn). Ở chủ đề “Gia đình”, bài “Đồ dùng gia đình và những dấu hiệu không an
toàn”, thì sẽ để cái kéo nhọn, cái dây điện hở…trong số các đồ dùng an toàn để
trẻ loại trừ. Ở chủ đề “Nghệ thuật”, bàihoạt động khám phá “Các loại nhạc cụ
mà bé biết”, ở chủ đề “Thể thao”, bài “Tìm hiểu về môn bơi lội”, chủ đề “ Thiên
nhiên” với các bài hoạt động khám phá của từng chủ đề nhánh đều có rất nhiều
thứ không cùng loại để trẻ loại trừ. Ngoài ra, trò chơi 4 “Không cùng loại”, tôi
cũng đã sử dụng trong giờ học toán “Loại một đối tượng không cùng loại với đối
tượng còn lại” ở chủ đề “Nghệ thuật”. Trò chơi 7 “Tạo nhóm”, tôi còn sử dụng
trong giờ Giáo dục thể chất, ở bài “Bò dích dắc bằng bàn tay, cẳng chân qua
năm điểm, chạy nhanh 15- 17m” khi trẻ lấy đúng và đặt đúng vị trí của vật theo
yêu cầu. Ở đây, yếu tố thi đua và thời gian nhanh hơn sẽ góp phần làm thể chất
của trẻ phát triển. Trò chơi này cũng rất phù hợp để chơi tiếp sức khi chơi TC
vận động ở hoạt động ngoài trời. Trò chơi 9 “ Xếp theo thứ tự”, với cách chơi 1
và 2, tôi đã sử dụng trong giờ học Làm quen với Toán trong phần cho trẻ làm
quen với số thứ tự; trẻ phản ứng nhanh nhạy, đặt số thứ tự từng giai đoạn phát
triển. Với cách chơi 3, tôi còn dùng để trẻ kể chuyện sáng tạo trong giờ làm
quen văn học của chủ đề “ Môi trường tự nhiên”. Trẻ sắp xếp theo thứ tự tranh
và kể lại được quá trình phát triển của cây; trẻ tưởng tượng tiếp theo và kể
những nội dung khác nhau theo trí tưởng tượng của mình. Các ý tưởng liên tục
được phát triển, mỗi ý tưởng là một câu chuyện, cô ghi lai và sau đó làm thành
sách để trẻ có thể cùng đọc, cùng chơi trong các hoạt động khác. Những câu
chuyện này của trẻ có thể dùng để giáo dục tình cảm với bà, với mẹ trong chủ
điểm “Gia đình” và đánh giá CS85. Trò chơi 10” Tháp dinh dưỡng diệu kì” thì
tôi sẽ dùng để chơi trò chơi luyện tập cho bài Làm quen MTXQ “ Bé cần gì để
lớn lên” ở chủ đề “Gia đình” và cũng là để đánh giá cho CS19 (kể tên 1 số thức
ăn cần có trong bữa ăn hàng ngày). Trò chơi này cũng có thể dùng để trẻ cùng
chơi trong hoạt động chiều khi đàm thoại vơi trẻ về những thực phẩm có lợi, có
hại cho sức khỏe (đánh giá CS20). Ở trò chơi 11, đây là một trò chơi được chơi
trong hoạt động ngoài trời sau khi làm thí nghiệm tạo mưa( sẽ trình bày ở phần
sau). Điều mà tôi thấy ở lớp mình sau khi áp dụng những trò chơi này là việc tổ
chức cho trẻ hoạt động khám phá không có gì là vất vả đối với cô cháu chúng tôi
và một không khí vui vẻ, hào hứng, nhiệt tình tham gia hoạt động luôn tràn ngập
trong lớp.
Nếu trò chơi mang lại nhiều niềm vui thì các thí nghiệm lại mang tới
nhiều ngạc nhiên, thú vị. Như phần đặt vấn đề đã nêu, các thí nghiệm đối với trẻ
Mẫu giáo còn khá xa lạ và đơn điệu. Nhưng tôi quan niệm: những gì trẻ nghe,
trẻ thấy, trẻ làm sẽ là những kiến thức, kĩ năng bền vững. Từ những thí nghiệm
trẻ được thực hành trên lớp, trẻ sẽ có kĩ năng quan sát để tự tạo cho mình những
thí nghiệm và quan trong là trẻ luôn ham thích đặt câu hỏi và đi đến tận cùng các
lí giải về các sự vật, hiện tượng xung quanh. Và quá trình trẻ làm thí nghiệm ở
đây sẽ đặt nền móng cho một quá trình nghiên cứu khoa học trong tương lai.
Những thí nghiệm này có thể là một hoạt động chung trong giờ hoạt động khám
phá ( thí nghiệm 7), có thể là một phần chơi củng cố kiến thức cho trẻ trong một
bài học(thí nghiệm 2), hay tổ chức trong hoạt động ngoài trời, hoạt động góc
(góc khoa học), hoạt động chiều. Ở thí nghiệm 1 “Trồng cây bằng gì”. Đây là
một thí nghiệm rất thú vị. Trước nay, trẻ thường chỉ nghĩ cây lớn lên từ hạt như
một vòng đời cố định. Nhưng với thí nghiệm này thì mang tới một kiến thức
mới. Tôi đã dùng thí nghiệm để trẻ thực hành trong giờ hoạt động chiều trước
khi học bài “Quá trình phát triển của cây” khoảng 1 tuần. Hàng ngày, trẻ xem và
ghi nhận kết quả. Trẻ chăm sóc mầm và từ đó sẽ biết về quá trình phát triển của
cây. Thí nghiệm này tôi tổ chức cho trẻ làm theo từng nhóm, mỗi nhóm trồng
một loại sau đó cho trẻ so sánh và trao đổi kết quả của nhau.
Còn ở thí nghiệm 2, sau khi học xong bài“ Quá trình phát triển của cây”,
trẻ đã biết cây cần nước trong quá trình phát triển. Tôi sẽ cho trẻ đặt câu hỏi xem
cây đã hút nước như thế nào và tiến hành cho trẻ làm thí nghiệm ở hoạt động
ngoài trời. Tận mắt chứng kiến sự chuyển màu của hoa và lá, trẻ đã rút ra rằng:
nước đi lên là do thân cây và lá cây hút lên nhuộm màu cho hoa và lá. Thí
nghiệm này tôi đã tổ chức cho cả lớp thực hành, quan sát và tự rút ra kết luận
như trên.
Ở thí nghiệm 3 “Nước chảy theo chiều nào”, tôi đã tổ chức cho trẻ thực
hiện theo nhóm tại góc khoa học trong giờ hoạt động góc. Trước khi trẻ làm thí
nghiệm, tôi cũng để trẻ đoán xem nước có chuyển động không, nếu có thì nó sẽ
chảy theo chiều nào. Trong quá trình thực hành, tôi luôn để tất cả các trẻ trong
nhóm được quan sát và từng trẻ phải nhận xét được những gì mình làm, mình
nhìn thấy. Song song với việc làm thí nghiệm, chúng tôi cũng đã sưu tầm được
một bộ tranh ảnh về tác dụng của dòng chảy rất đẹp và hữu ích mà ảnh dưới đây
là một ví dụ:
Những chiếc cọn nước khi đều đều quay những vòng quay để đưa nước
lên cao phục vụ đồng bào các dân tộc miền núi.
Nhà máy thủy điện Hòa Bình (ảnh: Báo ảnh Việt Nam)
Với thí nghiệm 4 “nước đá biến đi đâu”, thì ngoài việc quan sát và rút ra
kết luận thì các kiến thức về toán, khái niệm đầy hơn - vơi hơn; ấm hơn - lạnh
hơn cũng được trải nghiệm. Thí nghiệm này tôi đã dùng khi trẻ học về chủ đề
nhánh “Nước và các hiện tượng tự nhiên” ở bài “Khám phá các hiện tượng tự
nhiên”. Tôi đã đưa thí nghiệm này vào đầu giờ học để gây hứng thú cho trẻ và
hỏi trẻ đá tan chảy ứng với hiện tượng thiên nhiên nào? Để trẻ hiểu kĩ hơn về
hiện tượng băng tan, tôi tổ chức cho trẻ thí nghiệm lại trong hoạt động ngoài trời
và giải thích hiện tượng. Từ đây cũng giúp trẻ có hành vi bảo vệ môi trường
trong sinh hoạt hàng ngày (đánh giá CS 57).
Thí nghiệm 5 “Tạo cầu vồng”, tôi đã sử dụng để gây hứng thú trong giờ
hoạt động chung cho trẻ làm quen Văn học khi dạy trẻ bài thơ “Cầu vồng”. Sau
đó tôi cũng mang thí nghiệm này làm lại ở sân trường trong hoạt động ngoài
trời. Thật bất ngờ khi trẻ cũng có những cách làm của riêng mình: đổ nước vào
chai thủy tinh để bóng nắng xuyên vào, xếp những miếng giấy có màu giống với
màu của cầu vồng, vẽ bằng máy tính…Và trong giờ hoạt động góc tiếp theo, tôi
cũng cho trẻ chơi tạo cầu vồng bằng thí nghiệm với cốc nước hắt sáng trên tờ
giấy trắng. Màu sắc lung linh, nhảy nhót trên tờ giấy thật sự là một ấn tượng
tuyệt vời với trẻ. Và ở đây, đánh giá CS 95 (Dự đoán hiện tượng tự nhiên đơn
giản sắp xảy ra) cũng được thực hiện. Trẻ luôn yêu thích những thí nghiệm hứng
thú như vậy.
Ở thí nghiệm 6 “Vì sao ngọn nến tắt”, tôi đã cho trẻ làm thí nghiệm trong
buổi hoạt động chiều. Đầu tiên, tôi cho trẻ nói về ích lợi của không khí đối với
đời sống xung quanh. Rồi tôi cho trẻ tiến hành làm thí nghiệm và giải thích hiện
tượng với hai cốc nến. Ở đây, một bài học về sự nguy hiểm của lửa khiến trẻ
phải hết sức cản trọng khi dùng miếng giấy bạc bịt vào miệng cốc. Qua đây, tôi
cũng đánh giá trẻ ở CS 22 (Biết và không làm một số việc có thể gây nguy
hiểm). Tôi cũng đã hướng dẫn trẻ không làm thí nghiệm với những yếu tố nguy
hiểm (lửa, vật nhọn, điện…) khi không có người lớn hướng dẫn.
Như trên đã trình bày, ở thí nghiệm 7, tôi đã mạnh dạn dùng làm tiết dạy
ở hoạt động khám phá thuộc lĩnh vực phát triển thẩm mỹ. Ở đây, trẻ vừa biết kết
quả của 2 màu cơ bản đã pha, vừa biết ứng dụng của màu sắc vào cuộc sống lại
được chơi với màu rất vui vẻ. Trẻ làm việc theo từng nhóm rất hăng say và thể
hiện ngay trên sản phẩm của mình.
Nhóm thực hiện pha trộn 2 màu cơ bản để tạo màu mới :
Nhóm pha màu vẽ tranh:
Nhóm pha màu nhuộm vải :
Thí nghiệm : Sự đổi màu của nước
Bảng tổng hợp các kết quả.
Từ đây, trẻ có thể xếp các kết quả của nhóm theo độ đậm nhạt tăng dần và
phát hiện ra tỉ lệ của các màu để có màu như mong muốn. Thí nghiệm này cũng
đã tạo ra hiệu ứng tốt khi trẻ pha màu để tạo màu mới, nhất là trong hoạt động
tạo hình của trẻ. Và cũng hoạt động chung này, tôi đã quan sát để đánh giá trẻ ở
CS 38 một cách chính xác Đây còn là một cơ hội để tăng cường kĩ năng hợp tác
hoạt động theo nhóm cho trẻ, một kĩ năng còn trẻ Mẫu giáo còn thiếu và yếu.
Thí nghiệm này tôi cũng cho trẻ chơi thêm ở góc khám phá và được trẻ nhiệt
tình hưởng ứng.
Nói đến làm thí nghiệm với trẻ Mẫu giáo, hẳn có nhiều người sẽ nghĩ
không thể nào. Song với cô cháu chúng tôi, mỗi thí nghiệm lại mở ra một chân
trời mới mà qua đây tôi cũng thấy mình chưa đánh thức hết tiềm năng ở trẻ. Ví
như ở thí nghiệm 8 (sự chuyển động của âm thanh). Cũng là cái đài hằng ngày
trẻ nghe, cũng là những âm thanh, việc làm vãn thường diễn ra nhưng khi hướng
vào sự chuyển động thì ta thấy ngạc nhiên, thú vị quá. Hóa ra, mọi thứ rung
động (chuyển động) xung quanh ta mới làm cho ta nghe thấy âm thanh. Thế mà
bấy lâu nay ta cứ tưởng âm thanh là tự nhiên có, nó nằm sẵn ở những vật chứa
âm thanh mà tai của ta có thể nghe được. Một thí nghiệm đơn giản, dễ làm mà
mang đến bao điều mới mẻ.
Không chỉ mang tới kiến thức và sự yêu thích cho trẻ, những trò chơi, thí
nghiệm thiết kế và sưu tầm của tôi kể trên còn là một công cụ hữu hiệu để tôi
bồi dưỡng những trẻ chưa đạt ở các chỉ số ít được đánh giá trên giờ hoạt động
chung: CS 65 (nói rõ ràng) khi chơi trò chơi 9, trò chơi 8, trò chơi 6, trò chơi 4,
làm thí nghiệm 2, 5; CS 37(thể hiện sự an ủi, chung vui với người thân, bạn bè)
khi chơi những trò chơi mang tính chất thi đua: trò chơi 2, trò chơi 4, trò chơi 5,
trò chơi 7 (cách chơi 1, 2); CS 62 (nghe hiểu và thực hiện được các chỉ dẫn liên
quan đến 2- 3 hành động) khi đưa ta luật chơi, cách chơi hay các yêu cầu của thí
nghiệm. Ở các trò chơi này, ý kiến của bản thân trẻ dựa trên vốn hiểu của trẻ
được dùng trước nhiều trò chơi (3,11, 12), thí nghiệm (2,3,4), nên có thể dùng
để đánh giá hoặc những bồi dưỡng những trẻ chưa đạt ở CS 34. Những CS45,
CS75, CS113, CS115, CS119 hay 31, 32, 49, 68, 52, 55, 47 cũng sẽ được cô
giáo đánh giá lại chính xác những trẻ đã đạt cũng như bồi dưỡng những trẻ chưa
đạt ở giai đoạn tiếp theo khi tham gia vào trò chơi, thí nghiệm. Cũng từ đây, trẻ
biết chờ đến lượt khi tham gia các phần chơi (đánh giá CS 47), hay đặt câu hỏi
(đánh giá CS112) và giải thích được mối quan hệ nguyên nhân, kết quả đơn giản
trong cuộc sống hàng ngày (đánh giá CS114). Với các trò chơi và thí nghiệm
này, tôi luôn cố gắng chuẩn bị đồ chơi phong phú theo từng chủ điểm. Ngoài ra,
tôi cũng phân nhóm phù hợp với vốn hiểu biết và khả năng nhận thức của trẻ,
nâng dần độ khó để trẻ tự tin với những thành công đã đạt được. Vì vây, trẻ lớp
tôi luôn hào hứng tham gia và tiến bộ từng ngày, qua từng chủ đề.
III. KẾT QUẢ
1. Về phía trẻ:
- Trẻ có kiến thức, kĩ năng bền vững trong mỗi chủ đề qua từng trò chơi,
thí nghiệm được tiến hành.
100%
95%
80%
20%
Hứng thú tham gia Phát triển ngôn ngữ Khả năng quan Khả năng
hoạt động khám phá sát phán đoán suy luận
Đầu năm
Cuối năm
- Trẻ có một môi trường hoạt động phong phú, hấp dẫn với nhiều điều
tưởng chừng rất quen thuộc nhưng đầy bất ngờ.
- Trẻ được chơi nhiều trò chơi mang lại nhiều kiến thức mới lạ không ngờ.
- Trẻ được phỏng đoán, xem xét, quan sát và khám phá các sự vât, hiện
tượng xung quanh bằng tất cả các giác quan.
- Trẻ được hoạt động, làm những công việc phục vụ cho bản thân và thấy rất
hào hứng, tự hào khi mình được tin tưởng, đây cũng là dịp để trẻ thể hiện bản thân,
chiến thắng chính mình khi tham gia vào những trò chơi và thí nghiệm này.
- Trẻ được kích thích trí tò mò luôn tìm hiểu và giải thích về các sư vật và
hiện tượng xung quanh từ đó hình thành óc suy luận, khả năng phán đoán, tư
duy. Chính những trò chơi, thí nghiệm sẽ nuôi dưỡng ước mơ nghiên cứu khoa
học ngay từ giai đoạn này.
Kết quả khảo sát 44 trẻ lớp tôi đạt yêu cầu qua các giai đoạn tăng đáng kể :
Bảng khảo sát :
Nội dung Số
cháu
Đầu năm
(Tháng 9)
Cuối năm
(Tháng 4)
Hứng thú tham gia hoạt động khám phá
44
60% 100%
Phát triển ngôn ngữ
48% 97%
Khả năng quan sát, phán đoán
40% 93%
Khả năng suy luận
40% 95%
BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN KẾT QUẢ
60%
40%
0%
100 % 95%
93% 95%
60 % 48%
40% 40%
2. Về phía giáo viên:
- Có thêm nhiều trò chơi, thí nghiệm làm phong phú thêm phương tiện
truyền tải kiến thức đến với trẻ.
- Nảy sinh những yếu tố giúp xây dựng nên những trò chơi, thí nghiệm
mới hấp dẫn trẻ hơn.
- Là một công cụ để đánh giá một số chỉ số trong bộ chuẩn của trẻ 5 tuổi.
- Qua quá trình tổ chức cho trẻ chơi và làm thí nghiệm, cô dễ dàng phân
loại trẻ để có cách giáo dục phù hợp hơn cũng như phá hiện ra khả năng nổi trội
của 1 số trẻ để có kế hoạch bồi dưỡng.
3. Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh cũng được kết hợp cùng giáo viên sưu tầm các nguyên vật
liệu, đồ dùng để trẻ thí nghiệm, từ đó có kiến thức về những nội dung trẻ cần có
ở trường, kết hợp với giáo viên bổ sung, làm phong phú kiến thức cho trẻ.
- Đây cũng là những trò chơi, thí nghiệm phụ huynh đã lấy để tổ chức cho
các con tại nhà. Từ đó tạo ra ý thức luôn để trẻ được khám phá, được làm thí
nghiệm đơn giản và thường xuyên tạo điều kiện để trẻ được tự làm.
- Phụ huynh qua đây cũng thấy được khả năng của con em mình và có kế
hoạch bồi dưỡng cho trẻ cũng như tin tưởng vào trẻ có thể làm được nhiều điều
mà trước nay ta chưa nghĩ là trẻ có thể làm.
Khi thiết kế và sưu tầm những trò chơi, thí nghiệm này đưa và các hoạt
động cho trẻ, tôi không nghĩ trẻ lại hào hứng, say mê đến thế. Trẻ có thể chơi và
làm thí nghiệm đến quên cả thời gian cho phép và mỗi lần đưa ra một trò chơi,
thí nghiệm mới, trẻ lại hò reo sung sướng. Không những thế, nhất là những thí
nghiệm, nhiều trẻ còn tự nghĩ ra nhiều thí nghiệm hay và mang đến để cô cùng
thực hành với các bạn. Một không khí chơi mà học luôn tràn ngập trong lớp tôi.
IV. KẾT LUẬN
1 . Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình thiết kế và sưu tầm các trò chơi và thí nghiệm kể trên, tôi
rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
1.1. Ngay từ đầu năm học đã rà soát để nắm chắc những nội dung, kiến thức
cần đưa đến cho trẻ trong mỗi chủ đề cũng như các chỉ số càn đạt của bộ chuẩn.
1.2 . Việc lựa chọn, sử dung các trò chơi thiết kế và sưu tầm phải phù hợp
với mục đích, nội dung giáo dục đặt ra trong mỗi bài học, trong trong mỗi hoạt
động hoặc giai đoạn thực hiện chủ đề; phù hợp với vốn hiểu biết và khả năng
nhận thức của trẻ để đảm bảo tính phát triển.
1.3 Dựa vào đặc điểm cá nhân trẻ trong lớp mà lựa chọn các trò chơi, thí
nghiệm cho phù hợp. Những trẻ kém, chậm chạp thì chọn những trò chơi đơn giản,
sau đó nâng dần độ khó để tạo cho trẻ sự tự tin về những thành công đã đạt được.
1.4 . Để tổ chức tốt trò chơi, thí nghiệm, cần làm tốt công tác chuẩn bị như
chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi an toàn, phù hợp, bố trí thời gian và chỗ chơi, làm thí
nghiệm hợp lí.
1.5 Khi các trò chơi, thí nghiệm đã trở nên quen thuộc với trẻ. Trẻ đã nắm
được luật chơi, cách chơi của trò chơi và các thao tác làm thí nghiệm, cô khuyến
khích và tạo điều kiện để trẻ tự tổ chức trò chơi, thí nghiệm với bạn vào các thời
điểm khác nhau trong ngày (trừ thí nghiệm 6).
2. Khuyến nghị
2.1. Ban giám hiệu thường xuyên phát động phong trào thi đua khích lệ
giáo viên trong trường sáng tạo, thiết kế xây dựng một số trò chơi, thí nghiệm
ứng dụng trong quá trình giảng dạy. Vinh danh cá nhân , tập thể có những thiết
kế sáng tạo mang lại hiệu quả cao.
2.2 Đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung học liệu mới, nhiều hoạt động mới, hấp
dẫn trẻ và có hiệu quả để phục vụ cho công tác giáo dục trẻ.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã áp dụng trong quá trình tiến hành thiết
kế và sưu tầm các trò chơi, thí nghiệm nhằm tạo hứng thú cho trẻ hoạt động
khám phá. Rất mong các bạn đồng nghiệp, các nhà quản lí bổ xung, góp ý cho
tôi để làm phong phú thêm những kinh nghiệm trong công tác dạy.