/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Mục tiêu của giáo dục mầm non là tạo điều kiện tốt nhất để trẻ phát triển thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ, tình cảm và kỹ năng xã hội...Do đó giáo dục thể chất là nhiệm vụ hàng đầu quan trọng nhất vì sức khỏe là vốn quí nhất và có ý nghĩa sống còn đối với con người, đặt biệt với trẻ mầm non. Ở lứa tuổi này cơ thể đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện dần và cũng rất dễ bị phát triễn lệch lạc, mất cân đối....Vì thế trẻ chỉ có thể phát triển mạnh hoàn thiện tốt khi được người lớn chăm sóc nuôi dưỡng hợp lý và khoa học...
Để làm được điều trên thì giáo dục thể chất trong trường mầm non cần thực hiện những nội dung sau: Tổ chức cho trẻ vận động phù hợp, giáo dục cho trẻ những thói quen vệ sinh, tổ chức cho trẻ ăn ngủ phù hợp, tổ chức chế độ sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi...mà một trong những nội dung giáo dục thể chất cho trẻ đó là tổ chức bữa ăn cho trẻ.
Cơ thể trẻ lứa tuổi mầm non đang trong giai đoạn phát triển rất nhanh, đòi hỏi khẩu phần ăn đầy đủ về chất lượng và số lượng. Ở trường mầm non mẫu giáo trẻ thường được ăn 2 bữa là bữa trưa và bữa xế, trong đó bữa trưa là quan trọng nhất. Thông qua bữa ăn trưa trẻ được bù đắp những năng lượng đã bị tiêu hao và cung cấp năng lượng để tham gia các hoạt động tiếp theo. Vì vậy tổ chứa bữa ăn cho trẻ ở trường mầm non là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ
Trên thực tế việc chăm sóc bữa ăn trưa cho trẻ ở các trường mầm non còn rất nhiều vấn đề tranh cãi. Vì ngày nay cùng với sự phát triển chung của xã hội, mỗi gia đình đều có cuộc sống đầy đủ sung túc hơn. Chính vì vậy trẻ em được hưởng sự chăm sóc đặc biệt của gia đình và toàn xã hội. Vậy mà nhiều ông bố, bà mẹ vẫn phàn nàn rằng “Không hiểu sao con mình vẫn được ăn uống nhiều của ngon, vật lạ mà bé vẫn gầy yếu hoặc biếng ăn, kén ăn….” Chế độ dinh dưỡng cho trẻ như thế nào là hợp lý là khoa học tôi chắc rằng nhiều bậc cha mẹ còn băn khoăn chưa hiểu hết... Trong khi đó nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo rất đa dạng. Do đó nếu giáo viên mẫu giáo không nắm bắt tốt các nội dung giáo dục dinh dưỡng như: Nhu cầu dinh dưỡng, giá trị dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, cách chăm sóc trẻ và nắm được những nguyên nhân gây nên sự biến ăn, chán ăn, sợ ăn, ăn không thích thú của trẻ....để từ đó tìm ra các biện pháp khắc phục cho bữa ăn có kết quả: Trẻ hứng thú ăn, ăn ngon miệng, ăn được tất cả các món ăn bổ dưỡng ở trường, ăn uống hợp vệ sinh đúng giờ giấc...
Nắm được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tổ chức tốt bữa ăn cho trẻ, tôi đã nhận thức được rằng mình cần phải làm sao để có được những phương pháp và hình thức tổ chức mới nào để kích thích sự hứng thú, hào hứng nhằm nâng cao hiệu quả bữa ăn, góp phần giúp trẻ ăn ngon miệng hấp thụ đầy đủ hết các chất dinh dưỡng trong bữa ăn có sức khỏe thật tốt.... Không gì khác hơn là “Tạo hứng thú trong các bữa ăn cho các cháu”. Từ đó tôi đã mạnh dạn đầu tư và chọn nghiên cứu viết về đề tài "Một số biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi ăn ngon miệng, hết suất” cho các cháu lớp tôi
II.THỰC TRANG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI:
1.Thuận lợi :
- Tôi được dạy ở trường Mẫu giáo An Bình có môi trường khang trang đạt chuẩn Quốc gia đủ điều kiện về yêu cầu cơ sở vật chất môi trường cho các cháu học tập, sinh hoạt, ăn uống đảm bảo vệ sinh….
- Trường trang bị thiết bị hiện đại: bếp một chiều, nhà bếp rộng rãi thoáng mát có đầy đủ tiện nghi vệ sinh an toàn thực phẩm, lò hấp cơm, tủ lạnh đựng thức ăn sống, chín riêng…Lớp học có chổ ăn ngủ riêng thuận tiện cho sinh hoạt của các cháu..., đội ngũ cấp dưỡng có kiến thức, tay nghề kinh nghiệm về dinh dưỡng chế biến các món ăn...
- Bản thân tôi là giáo viên giảng dạy chăm sóc cháu nhiều năm có kinh nghiệm về giảng dạy chăm sóc cháu, bên cạnh đó được sự quan tâm giúp đỡ từ Ban giám hiệu nhà trường, chị em đồng nghiệp khi thực hiện đề tài này.
- Giáo viên lớp Đại học mầm non được Ban giám hiệu tạo điều kiện học bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn: Nghiệp vụ hè hàng năm, học các lớp về dinh dưỡng an toàn thực phẩm, chuyên đề chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng, môi trường cho trẻ từ 0 – 6 tuổi….
- Nhà trường đã phân trẻ theo đúng độ tuổi nên tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo viên đứng lớp trong quá trình giảng dạy chăm sóc
2. Khó khăn :
- Số cháu 48 hơi đông so với diện tích lớp học, bàn ăn cháu bố trí hơi chật và cô đi lại bao quát trong giờ ăn của trẻ còn hạn chế....
- Còn một số cháu không qua lớp mầm nên nề nếp ăn uống vệ sinh còn hạn chế, giờ ăn nói chuyện, chưa có ý thức trong khi ăn, chưa biết tự phục vụ bản thân, chưa tự xúc ăn....
- Nhận thức của cha mẹ các cháu không đồng đều, một số cha mẹ ít quan tâm đến việc ăn uống vệ sinh của con cái, họ nghĩ “Con đòi ăn gì thì cho ăn không cần giờ giấc” Họ ít quan tâm đến chế độ ăn, dinh dưỡng trong các món ăn. Do đó số trẻ biếng ăn, ăn ngậm cơm, suy dinh dưỡng, béo phì vẫn còn… Nên có trẻ chưa hứng thú trong bữa ăn, ăn không ngon miệng. Dẫn đến sự hấp thụ dinh dưỡng vào cơ thể trong các bữa ăn cho trẻ hạn chế. Do đó vẫn còn trẻ nhẹ cân hơn tuổi ...
Bữa ăn trưa của trẻ chồi 1 trường Mẫu giáo An Bình
3. Số liệu thống kê:
- Số liệu thống kê này được thực hiện trên 48 cháu lớp Chồi 1. Trường mẫu giáo An Bình Thị xã Long Khánh – Tỉnh Đồng Nai trước khi thực hiện “Một số biện pháp tạo hứng thú trong bữa ăn cho trẻ”
NỘI DUNG
|
SỐ LIỆU TRƯỚC KHI TẠO HỨNG THÚ BỮA ĂN CHO TRẺ
|
Số trẻ
|
Tỉ lệ
|
1. Trẻ biết tham gia phụ cô chuẩn bị bữa ăn
|
22/48
|
45,83%
|
2. Trẻ có những thói quen tốt trong bữa
ăn, biết tự mút ăn gọn gàng
|
30/48
|
62,50%
|
3. Trẻ hào hứng vào bữa ăn, ăn ngon miệng không kén chọn
|
25/48
|
52,08%
|
4. Thời gian trẻ ăn hết khẩu phần ăn từ 20 – 30 phút
|
28/48
|
58,33%
|
5. Trẻ ăn hết khẩu phần ăn
|
38/48
|
79,17%
|
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
Như chúng ta biết “Ăn uống là một trong các bản năng quan trọng nhất của con người và các loài động vật khác”. Ăn uống cần thiết cho sức khỏe của con người. Nhờ các phát hiện của dinh dưỡng học, người ta biết trong các thức ăn có chứa rất nhiều các thành phần dinh dưỡng cần thiết đối với cơ thể con người đó là protein, lopit, gluxit, vitamin, chất khoáng và nước...sự thiếu hụt một trong các chất khoáng này có thể gây nên bệnh tật thậm chí chết người - “Ăn uống là nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi con người”. Bởi thế trong chế độ sinh hoạt hằng ngày của trẻ mầm non không thể thiếu trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Việc tổ chức chế độ ăn uống hợp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự phát triển bình thường của một đứa trẻ, nó còn đảm bảo sự sống, sự phát triển của tất cả các tế bào trong cơ thể trẻ....
Vì thế chẳng có một tế bào nào trong cơ thể dám từ chối thức ăn. Không những thế thức ăn còn cung cấp những chất cần thiết để cơ thể lớn lên và phát triển. Từ bào thai lớn lên thành em bé rồi thành người lớn, không thể trông cậy gì khác ngoài thức ăn. Nói chung tất cả các cơ quan trong cơ thể đều nhờ đến thức ăn để tồn tại và phát triển
Hoạt động của cơ quan tiêu hóa phụ thuộc vào sự muốn ăn của cơ thể. Cảm giác muốn ăn có liên quan đến sự hưng phấn của các trung khu thần kinh diều khiển ăn uống của não bộ, từ đó có liên quan đến sự tăng cường các phản xạ ăn uống. Vì vậy nếu ta không muốn ăn thì dịch tiêu hóa sẽ tiết ra ít, thức ăn sẽ tiêu hóa chậm hơn và ít hiệu quả hơn
Để trẻ có cảm giác muốn ăn, ăn ngon miệng thì điều trước tiên của chúng ta là thành lập cho trẻ phản xạ ăn uống có điều kiện, phụ thuộc vào sự ngon miệng của trẻ, nghĩa là phụ thuộc vào sự hưng phấn của trung khu thần kinh ăn uống. (Ví dụ: Cho trẻ ăn kẹo trước bữa ăn thì sự ngon miệng bị hạ thấp theo cơ chế phản xạ).
Như vậy muốn tạo cảm giác muốn ăn, ăn ngon miệng của trẻ thì cần phải hình thành những thói quen ăn uống và đặc biệt cần hình thành thói quen ăn uống đúng giờ giấc theo chế độ sinh hoạt một ngày ở trường mầm non. Khi thói quen đã có thì chỉ cần đến giờ ăn quen thuộc các cơ quan tiêu hóa bắt đầu tiết dịch trước khi ăn. Khi đó trẻ có cảm giác muốn ăn và khi được ăn sẽ ngon miệng, đồng thời thức ăn sẽ được tiêu hóa nhanh hấp thu tốt. Bên cạnh đó còn phụ thuộc vào: Phòng ăn sạch sẽ, cách bố trí trên bàn ăn cũng là một yếu tố quan trọng tạo ra cảm giác muốn ăn của cơ thể ( Khi vào một phòng ăn thoáng mát, sạch sẽ, được ngồi ăn trên bàn ghế sạch đẹp người ta sẽ có cảm giác muốn ăn và khi ăn rất ngon miệng..). Ngoài ra các dụng cụ ăn uống như bát, đĩa, thìa sạch sẽ, vệ sinh...cũng giúp ta ăn uống ngon miệng hơn....
Mặt khác cách chế biến các món ăn, mùi thơm, màu sắc của thức ăn sẽ kích thích dịch tiêu hóa.
Ví dụ: Cũng là tô canh súp được nấu rất thơm ngon, khi ta múc ra tô nhìn thấy rõ các màu sắc bên trong của tô súp nào là màu cảm của cà rốt, màu vàng của khoai tây, màu xanh của đậu ve, màu đỏ của củ dzền và màu nâu thịt bầm..làm cho tô súp thêm hấp dẫn, cộng với lời giới thiệu món ăn đầy thu hút của cô làm cho trẻ hay ngay bản thân chúng ta cũng sẽ muốn ăn ngay. Nhưng nếu chúng ta múc canh ra không chú ý đến màu sắc, cách giới thiệu thì cảm giác muốn ăn sẽ giảm đi và ăn không thấy ngon miệng bằng...
Nắm được tầm quan trọng của việc tổ chức bữa ăn cho trẻ mẫu giáo nên Tôi đi sâu vào nghiên cứu kỹ đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi ăn ngon miệng, hết suất” của lớp tôi vào chương trình giảng dạy chăm sóc trẻ.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Để giúp trẻ hứng thú trong bữa ăn, có cảm giác ăn ngon miệng, hết suất. Tôi đã suy “Phải làm sao để tạo cho trẻ lớp tôi có thói quen ăn uống giờ giấc để đến giờ ăn là các cháu có ý thức ăn tốt, hứng thú ăn và ăn ngon miệng” và tôi đã tìm ra một số nội dung như:
- Nắm bắt những kiến thức trong việc chăm sóc bữa ăn dinh dưỡng cho trẻ và dạy trẻ biết một số món ăn, thực phẩm thông thường và ích lợi của chúng đối với sức khỏe
- Dạy trẻ biết thực hiện tốt kỹ năng sống trong ăn uống như: Thực hiện một số việc tự phục vụ trong sinh hoạt (Tự rửa tay bằng xà bông trước khi ăn, tự xúc ăn gọn gàng và tự đánh răng sau khi ăn xong...), có hành vi thói quen tốt ( Mời cô mời bạn khi ăn, ăn từ tốn, nhai kỹ, biết ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, ăn uống vệ sinh ho ngáp hắc hơi biết lấy tay che miệng...)
- Lòng ghép giáo dục dinh dưỡng vào các hoạt động trong ngày của trẻ
- Thực hiện đúng chế độ sinh hoạt một ngày ở lớp “Giờ nào việc nấy”: Tập cho trẻ vệ sinh, ăn uống, ngủ đúng giờ giấc...
- Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý: Chuẩn bị giờ ăn, bố trí chổ ăn cho trẻ...
- Tạo không khí vui vẻ trong bữa ăn kích thích sự thèm ăn của trẻ.
- Công tác tuyên truyền với phụ huynh:
* Biện pháp 1 : Bổ sung kiến thức về dinh dưỡng cho cô và trẻ
* Đối với cô:
- Tham gia đầy đủ các đợt học bồi dưỡng nghiệp vụ hè hàng năm về công tác chăm sóc giáo dục trong chương trình mầm non mới theo khoa học, chú ý các chuyên đề dinh dưỡng liên quan đến sức khỏe, bệnh tật của trẻ. Xác định trách nhiệm của mình trong công tác nuôi dạy chăm sóc về dinh dưỡng cho các cháu là nhiệm vụ của giáo viên
- Tự tìm hiểu, nghiên cứu để biết nhu cầu dinh dưỡng của trẻ theo từng độ tuổi, biết một khẩu phần ăn như thế nào là đầy đủ và hợp lý, biết các nguyên tắc xây dựng khẩu phần ăn, biết giá trị dinh dưỡng của các thực phẩm thông thường sẵn có ở địa phương để có những kiến nghị phù hợp với Ban giám hiệu nhà trường trong chế độ ăn của trẻ
- Biết cách chăm sóc những trẻ biếng ăn, ăn yếu không ép dọa trẻ làm cho trẻ sợ mà bằng tình thương, lời nói động viên để trẻ thích ăn, ăn hết suất
- Giáo viên phải hiểu biết rõ những điều cơ bản về vệ sinh an toàn thực phẩm để dạy và hướng dẫn cho trẻ thực hiện tốt
- Thường xuyên theo dõi sức khỏe trẻ bằng biểu đồ tăng trọng, hiểu được ý nghĩa, mục đích của việc theo dõi sức khỏe của trẻ bằng biểu đồ tăng trọng
- Bản thân tôi luôn tìm tòi học hỏi cách trang trí bàn ăn, tên gọi của các món ăn, các chất, lợi ích của bữa ăn, món ăn để giới thiệu sao cho hấp dẫn tạo cảm giác muốn ăn của trẻ khi nghe cô nói...
* Đối với trẻ:
- Dạy cho trẻ biết các nhóm thực phẩm cần thiết trong bữa ăn, biết các thực phẩm trong món ăn, bữa ăn trẻ thường được ăn để trẻ biết được 4 nhóm thực phẩm chính cần cho cơ thể (đạm, béo, bột đường, vitamin và chất khoáng), biết cần phải ăn uống những thực phẩm tươi sạch mới tốt cho sức khỏe... Thông qua các chủ đề học ( bản thân, gia đình, thực vật, động vật...) và qua những giờ học dinh dưỡng, giờ chơi góc, phụ mẹ nấu ăn ở nhà, trẻ hiểu biết được các nhóm thực phẩm nấu ăn hàng ngày...
- Dạy cho trẻ hiểu được “Bé cần gì để lớn lên và khỏe mạnh” biết được cần được ăn uống để sống, để phát triển, để làm việc, học tập và vui chơi hiểu biết tốt về dinh dưỡng trẻ biết ăn uống vệ sinh, ăn đầy đủ chất, ăn nhiều loại thức ăn, không kén chọn thức ăn, ăn hết suất
Ví dụ: Cô cho trẻ xem những hình ảnh quá trình lớn lên của bé (bé mới đẻ, bé mới biết ngồi, bé biết đi, bé lớn...trò chuyện với trẻ về những thức ăn của bé...Nhờ được chăm sóc ăn uống đầy đủ các chất mà bé lớn lên và khỏe mạnh
Từ những hiểu biết kiến thức về dinh dưỡng trẻ có ý thức đến việc ăn uống của mình trẻ ăn uống không còn kén chọn, không còn kén ăn, ăn chậm hoặc bỏ thừa....
* Biện pháp 2: Lòng ghép giáo dục dinh dưỡng (ăn uống) vào các hoạt động trong ngày của trẻ
a. Trò chuyện với trẻ:
Để giúp trẻ hiểu biết nhiều về dinh dưỡng (ăn uống) chúng ta không những giáo dục dạy cho trẻ biết trong giờ ăn, giờ học mà còn trò chuyện với trẻ mọi lúc mọi nơi trong giờ đón, giờ chơi, giờ về hay lúc ngồi chơi với trẻ
Ví dụ: Trong giờ hoạt trò chuyện đón trẻ cô hỏi sáng mẹ cho con ăn món gì? Kể cô nghe? Món đó có những gì? Con ăn hết không?....
b. Trong giờ học (Chủ đề bản thân, gia đình, thực vật, động vật)
- Qua học tập chủ đề bản thân “ Bé cần gì để lớn lên và khỏe mạnh” trẻ biết được cần được ăn uống để sống, để phát triển, để làm việc, học tập và vui chơi hiểu biết tốt về dinh dưỡng trẻ biết ăn uống vệ sinh, ăn đầy đủ chất, ăn nhiều loại thức ăn, ăn hết suất, không kén chọn thức ăn
Ví dụ1: Lồng ghép dinh dưỡng trong tiết khám phá chủ đề “Bé cần gì để lớn lên khỏe mạnh qua trò chơi “Chọn thực phẩm cho bé” – Qua các hình ảnh lớn lên của bé trẻ biết gọi tên thực phẩm cần cho bé, tên nhóm thực phẩm ...
Sữa Bột Cháo Cơm
Ví dụ 2: Trong trò chơi dinh dưỡng trên máy tính cô cho trẻ lên lick chọn những thực phẩm theo đúng nhóm hay lick chọn những thực phẩm cần cho món “Canh súp mẹ nấu” trẻ nhìn các rau củ thịch trong tô canh để lick chọn những thực phẩm ở ngoài lên cho đúng
Hình bài tập Hình bài tập bé làm
c. Dạo chơi ngoài trời:
Ví dụ: Trong hoạt động ngoài trời trẻ được cô dẫn đi tham quan khu vực bếp xem các bác cấp dưỡng vệ sinh thực phẩm, chế biến thực phẩm và ngửi được những mùì thơm món ăn mình sắp ăn, các thực phẩm nấu món ăn hôm nay mình sẽ được ăn....
Cảnh tham quan
nhà bếp
d. Trong vui chơi của trẻ:
- Chơi là hoạt động trẻ được thể hiện hết khả năng, kiến thức hiểu biết của mình vào trò chơi, vai chơi và chơi cũng thể hiện hết kết quả hiểu biết của trẻ
* Chơi phân vai “ Nấu ăn – Cửa hàng ăn uống”
- Trong trò chơi này trẻ đóng vai người lớn đi chợ mua thức ăn cần nấu, biết cách sơ chế thức ăn, nấu ăn...và chuẩn bị, tổ chức bữa ăn cho gia đình...
(cảnh góc chơi gia đình)
Qua vui chơi các cháu có ý thức hơn về ăn uống, hào hứng trong giờ ăn, ăn hết các món ăn mình vừa nấu không kén chọn, có những hiểu biết kiến thức dinh dưỡng về các món ăn từ đó cháu không còn kén chọn món ăn, không bỏ thừa khi ăn trong giờ ăn thật sự của mình
* Chơi vận động:
Bằng nhiều hình thức tổ chứ chơi cô có thể cho cháu chơi nhiều trò chơi vận động thì đua nhau chọn mua thực phẩm nấu món ăn, mua thực phẩm mẹ cần, chuyển thực phẩm xếp đúng chổ (theo nhóm)...
- Trò chơi “Đi chợ giúp mẹ”
+ Chuẩn bị: Các nhóm thực phẩm từ đồ chơi nhựa, tự tạo: Tôm thịt cá, rau củ, bún, gạo, bánh, dầu ăn, bơ, phomai....
+ Cách chơi: Cô chia lớp ra làm 4 nhóm cho trẻ thi đua đi mua thực phẩm giúp mẹ nấu ăn hay mua thực phẩm theo yêu cầu của mẹ (mua theo nhóm...). Nhóm gia đình nào mua nhanh, nhiều và mua đúng sẽ thắng cuộc
Ví dụ 1: Hãy mua giúp mẹ thực phẩm nấu gà nấu la gu: Các nhóm sẽ lần lược chạy lên chọn nào là nấm, cà rốt, khoai tây, hành, dầu ăn, gà và gia vị để nấu món gà nấu lagu mà trẻ thường được ăn và nghe cô và mẹ giới thiệu trong gà nấu lagu có gì trong đó...
Ví dụ 2: Đi chợ mua giúp mẹ những thực phẩm nhiều chất đạm để nấu ăn: các cháu sẽ lần lược chạy lên chọn nào là thịt heo, bò, gà, tôm, cua, cá, đậu hủ, nấm...
-Trò chơi “Thi xem ai giỏi”
+ Chuẩn bị: Các nhóm thực phẩm từ đồ chơi nhựa, tự tạo: Tôm thịt cá, rau củ, bún, gạo, bánh, dầu ăn, bơ, phomai....
+ Cách chơi: Cô cũng chia lớp ra làm 4 nhóm cho trẻ thi đua chọn xếp nhanh thực phẩm mẹ mua về theo nhóm vào từng rổ giúp mẹ. Nhóm nào xếp nhanh, gọn và đúng sẽ thắng cuộc
* Biện pháp 3: Rèn trẻ các thói quen, nề nếp vệ sinh trong ăn uống
- Nếu trước đây các giáo viên mầm non phải rất vất vả làm hết tất cả công việc chuẩn bị bữa ăn, nhắc nhở trẻ vệ sinh ăn uống, xúc cho trẻ ăn...thì giờ đây cô tập cho trẻ thành các thói quen vệ sinh ăn uống tự phục vụ thường xuyên, đến giờ biết đi rữa tay mặt sạch sẽ đúng cách trước khi ăn, và biết tự giác phụ cô chuẩn bị giờ ăn theo lịch phân công của tổ nhóm và có thói quen văn minh trong ăn uống biết tự xúc cơm ăn gọn gàng, ăn nhai kỹ không đùa giỡn, ăn ho ngáp hắc hơi biết lấy tay che miệng....
+ Trước hết cô dạy cho trẻ biết thực hiện các thao tác vệ sinh như rửa tay, lau mặt đúng cách và thường xuyên cho trẻ thực hiện hàng ngày đúng giờ và theo dõi kiểm tra trẻ thực hiện các thao tác vệ sinh sẽ tạo cho trẻ thành những thói quen vệ sinh tốt “Rữa tay, mặt bằng xà bông trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh xong và rữa khi tay mặt bẩn..”
Làm vệ sinh trước giờ ăn của trẻ
+ Tập cho trẻ biết cùng bạn phụ cô chuẩn bị bữa ăn của lớp dưới hình thức tổ (nhóm) trực nhật giờ ăn như cách trãi khăn bàn, xếp khăn ăn từng bàn, chia muỗng, dĩa, chén đựng thức ăn thừa đến các bàn ăn....Tập cho từng nhóm trẻ phụ cô như vậy tạo cho trẻ có ý thức tự phục vụ, thích lao động, trẻ sẽ phấn khởi trong các giờ ăn giúp trẻ ăn ngon miệng hơn và về nhà cũng biết phụ mẹ chuẩn bị bữa ăn gia đình
Phụ cô chuẩn bị giờ ăn
+ Giờ ăn cô dạy trẻ nề nếp ăn biết mời cô, mời bạn trước khi ăn, ngồi ngay ngắn, không đùa giỡn nói chuyện nhiều trong khi ăn, ho ngáp hắc hơi biết lấy tay che miệng, ăn tay phải cầm muỗng xúc ăn, tay trái giữ chén tránh đỗ cơm, rơi cơm ra ngoài...Những nề nếp này được cô nhắc nhỡ rèn cho trẻ thường xuyên hàng ngày để trở thành thói quen nề nếp ăn uống cho trẻ không cần nhắc trẻ cũng thực hiện tốt..
Từ những công việc cụ thể trên tạo cho trẻ một ý thức, kỹ năng sống vệ sinh ăn uống tốt dẫn đến kết quả bữa ăn của trẻ cũng được nâng cao, trẻ hào hứng chào đón bữa ăn đến và cảm thấy ăn ngon miệng với những món ăn trong ngày ở trường cũng như ở nhà....
* Biện pháp 4: Bố trí chổ ăn cho trẻ.
Bố trí chổ ăn cũng rất quan trọng trong ăn uống ngon miệng ở trẻ, trẻ ăn phải được ngồi ăn thoải mái, mát mẻ, các bàn ăn cách nhau một khoảng trống để có lối đi để trẻ dễ di chuyển đi lại...
+ Mỗi bàn ăn có 6 trẻ, trên mỗi bàn ăn có một dĩa để muỗng (6 cái), dĩa đựng khăn ăn (6 cái khăn ), 2 chén nhỏ đựng thức ăn thừa và dĩa đựng muỗng (6 cái muỗng)
+ Xếp ghế cho mỗi bàn ăn: Mỗi bàn xếp 6 ghế, hai bên mỗi bên 2 cái và 2 đầu bàn mỗi bên 1 cái để trẻ dễ đi lại...
Trẻ ngồi ăn trong bàn ăn: Trẻ ngồi với các bạn có tinh thần ăn uống trẻ sẽ ăn uống vui vẻ theo, chính vì lẽ đó tôi bố trí những cháu ăn chậm ngậm cơm xen kẻ chung với các bạn ăn nhanh, ăn giỏi, các trẻ này có thể nhắc nhở động viên bạn ăn, cùng thi ăn với nhau hay trẻ ăn xong có thể xúc cho bạn ăn các trẻ sẽ thích hơn là cô xúc, tránh tình trạng cho trẻ biến ăn kén ăn ngồi chung nguyên bàn, nhìn bạn ăn uể oải trẻ cũng chẳng muốn ăn. Tuy nhiên những trẻ ăn chậm cô cho trẻ ngồi ở một vài bàn gần nhau để cô dễ bao quát nhắc nhở, không nên cho trẻ ngồi rãi hết các bàn...
* Biện pháp 5: Rèn trẻ thói quen ăn uống có giờ giấc.
Muốn tạo cảm giác ăn uống ngon miệng ở trẻ tốt thì không gì khác hơn là cô giáo, phụ huynh cần rèn cho trẻ thói quen ăn uống có giờ giấc tức là chúng ta cần hình thành cho trẻ phản xạ có điều kiện ăn uống về thời gian. Đó là thực hiện đúng chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ “giờ nào việc nấy” không được làm xáo trộn giờ giấc ăn uống của trẻ
+ Đúng 10g là trẻ cùng cô chuẩn bị giờ ăn, rồi đi làm vệ sinh trước khi ăn cùng các bạn
+ Đúng 10g20 là trẻ được ăn cơm trưa, trẻ ra bàn ngồi ngay ngắn vào bàn ăn tự xúc ăn cùng các bạn...
Để trẻ có thói quen ăn uống, cảm giác ăn ngon miệng trong bữa ăn, ăn hết suất được kết quả tốt ngoài việc thực hiện đúng giờ giấc, giáo viên, phụ huynh chú ý tuyệt đối không cho trẻ ăn gì trước giờ ăn như bánh kẹo, uống nước ngọt.. để cho giờ ăn trẻ ăn ngon miệng, hết suất....
* Biện pháp 6: Tạo môi trường, không khí, tâm trạng ăn ngon miệng
Cách tổ chức bữa ăn cho trẻ góp phần làm trẻ hứng thú, ngon miệng với bữa ăn và dễ dàng ăn hết suất ở trường lớp. Điều này đôi khi chúng ta chưa thật chú ý tới. Nhưng lại rất cần thiết trong quá trình tạo cảm giác trong bữa ăn, giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn hết suất. Điều mà giáo viên chúng ta cần phải làm trong bữa ăn là tạo môi trường, không khí, tâm trạng ăn ngon miệng cho trẻ như:
- Tạo không khí vui vẻ cho bữa ăn qua nét mặt, cử chỉ, lời nói của cô khi chăm sóc cho trẻ ăn.
- Chia cơm, thức ăn đều từng chén đảm bảo chén nào cũng có thức ăn , đảm bảo sự công bằng đối với trẻ, đối với trẻ ăn chậm thì chén cơm ít hơn bạn một tí để trẻ không thấy ngán, cô chú ý châm thêm cho trẻ từ từ trẻ sẽ thích ăn hơn...
- Giới thiệu món ăn hấp dẫn và cách giới thiệu cũng thay đổi thường xuyên để tạo sự mới mẻ của món ăn trẻ chờ đón được ăn...(Ví dụ: Các con nhìn xem hôm nay mình ăn món gì? Đúng rồi hôm nay lớp mình ăn cá thu chiên sốt cà và canh súp nhìn màu canh đẹp không? Tuần sau cũng món ăn này cô lại giới thiệu cách khác: Các con có ngửi mùi thơm gì không? Đố các con món gì? À đó là món cá sốt cà và canh gì có nhiều loại củ và màu sắc đẹp vậy? Nghe nói ngon quá nào mình xúc ăn - ngon không? Các món ăn con ăn rất ngon và bổ vì có nhiều chất dinh dưỡng như đạm, bột đường, béo, vitamin....)
- Trẻ xúc ăn: dùng muỗng vừa miệng trẻ, nhắc trẻ xúc ăn với lượng thức ăn vừa phải, nhai nuốt hết thức ăn rồi mới xúc tiếp.
- Đối với trẻ chưa chú ý ăn và trẻ biếng ăn cô động viên, khuyến khích trẻ bằng nhiều hình thức
Ví dụ: Thấy trẻ ngồi nhìn chén cơm không muốn ăn, cô nói “Các em thức ăn hỏi mình các em ngon không vậy? Nào nào mình xúc ăn đi rồi nói với mấy em thức ăn là các em ngon lắm...” hay bằng trò chơi thi đua “Thức ăn vào bụng bạn nào nhanh nhất”
Qua những câu nói của cô trẻ cảm thấy hào hứng thích ăn không còn cảm giác chán ăn nữa
- Nếu bé ăn chậm, nuốt không hết thức ăn trong miệng, có thể cho trẻ uống muỗng nước canh; sẽ giúp cho trẻ nuốt thức ăn được dễ dàng hơn vì nhiều khi do lượng nước bọt của trẻ tiết ít làm trẻ khó nuốt.
Giờ ăn trưa của trẻ ở lớp
- Đối với trẻ ăn chậm, cô múc cho trẻ chén vừa phải, ăn hết rồi múc tiếp. Không nên để thức ăn chảy vữa mất ngon. Khi trẻ ăn xong ta cũng nên có lời khen trẻ.
- Cũng cần chú ý tuyệt đối, không nên la mắng, dọa, thậm chí đánh trẻ. Điều này sẽ làm cho trẻ sợ bữa ăn, ăn không ngon miệng. Dần dần trẻ dễ trở thành biếng ăn.
- Tuyên dương , động viên trẻ kịp thời đúng lúc. Sau mỗi lần cân đo cô cho trẻ biết kết quả trẻ tăng cân hay giảm cân và giải thích vì sao để trẻ hình thành ý thức tự chăm sóc bản thân : Cố gắng ăn hết khẩu phần, đi ngủ đúng giờ, giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường ..
* Biện pháp 7 : Phối hợp với cha mẹ học sinh
Để làm tốt các biện pháp trên, ngòai sự nỗ lực của bản thân, nhà trường hỗ trợ cơ sở vật chất còn rất cần đến sự phối hợp của cha mẹ học sinh cùng nhau chăm sóc con em mình theo khoa học ..
- Tuyên truyền về chế độ sinh hoạt một ngày, chế độ giờ giấc ăn uống ở trường lớp cho cha mẹ học sinh nắm dạy cho con em mình thực hiện ở nhà ăn uống đúng giờ như ở trường, trẻ có thói quen tốt trong ăn uống, ăn ngon miệng, hết suất không kén chọn, bỏ thừa. Bên cạnh đó giáo viên tuyên truyền những kiến thức nội dung chăm sóc, dinh dưỡng ở bảng tuyên truyền của lớp ...
- Trao đổi trực tiếp với cha mẹ học sinh trong giờ đón và trả trẻ về vấn đề sức khỏe, ăn uống của các cháu khi có thay đổi, để cha mẹ các cháu biết chú ý nhắc nhở hay chăm sóc cháu thêm ở nhà ... bên cạnh đó ba mẹ, ông bà tạo điều kiện tốt cho con được rèn luyện thêm các thói quen hành vi ăn uống tốt thêm ở nhà. Gia đình và nhà trường cùng nhau giúp rèn trẻ có phản xạ ăn uống tốt thật bền vững giúp trẻ ăn uống ngon miệng, có sức khỏe tốt hơn
IV. KẾT QUẢ :
Dựa vào những biện pháp trên tôi tổ chức rèn luyện giáo dục kỹ năng sống, hành vi văn minh trong ăn uống cho trẻ có những phản xạ trong ăn uống, giúp cho cháu ăn ngon miệng, hết suất trong các bữa ăn ở lớp. Sau một thời gian thực hiện đến nay tôi đã được một số kết quả sau:
* Đối với cô:
- Bản thân tôi nắm vững và hiểu rõ cách tổ chức bữa ăn cho trẻ là một nội dung quan trọng trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Nó có ý nghĩa rất lớn đến sự phát triển thể chất của trẻ. Thường xuyên tạo hứng thú cho trẻ có giờ ăn trưa đạt hiệu quả tốt
- Đến nay bản thân tôi đã có những kinh nghiệm mới trong việc tổ chức giờ ăn giúp trẻ ăn ngon miệng, hết suất... Tôi biết cách hướng dẫn lồng ghép giáo dục dinh dưỡng cho trẻ linh hoạt hơn vào các hoạt động theo chủ đề, hàng ngày nhằm tạo chất lượng các bữa ăn của trẻ đem lại hiệu quả cao
* Đối với trẻ:
NỘI DUNG
|
Số liệu trước khi tạo hứng thú ăn
|
Số liệu sau khi tạo hứng thú ăn
|
TỈLỆTĂNG
|
Số trẻ
|
Tỉ lệ
|
Số trẻ
|
Tỉ lệ
|
1. Trẻ biết tham gia phụ cô chuẩn bị bữa ăn
|
22/48
|
45,83%
|
40/48
|
83,33%
|
37,50%
|
2. Trẻ có những thói quen tốt trong bữa ăn, biết tự mút ăn gọn gàng
|
30/48
|
62,50%
|
46/48
|
95,83%
|
33,33%
|
3. Trẻ hào hứng vào bữa ăn, ăn ngon miệng không kén chọn
|
25/48
|
52,08%
|
46/48
|
95,83%
|
43,75%
|
4. Thời gian trẻ ăn hết khẩu phần ăn từ 20 – 30 phút
|
28/48
|
58,33%
|
44/48
|
91,67%
|
33,34%
|
5. Trẻ ăn hết khẩu phần ăn
|
38/48
|
79,17%
|
48/48
|
100%
|
20,83%
|
- Qua bản thống kê so với ban đầu trẻ có nề nếp hành vi ăn uống văn văn minh, hứng thú trong giờ ăn, ăn ngon miệng, hết suất và hiệu quả bữa ăn của các cháu được nâng cao trên 90%
- Sức khỏe của trẻ so với đầu năm đạt 100% sức khỏe tốt, giảm được thấp còi và nặng cân, đa số trẻ phát triển cả chiều cao và cân nặng. Các cháu khỏe mạnh, nhanh nhẹn, mạnh dạn và hứng thú tham gia các hoạt động trò chơi vân động của lớp
* Đối với cha mẹ học sinh:
- Cha mẹ của các cháu thấy được mỗi ngày con mình ngoan hơn có nề nếp trong ăn uống, bố mẹ, ông bà rất thích và tự hào con mình khỏe mạnh thông minh biết tự ăn uống và có thói quen vệ sinh tốt...
- Cha mẹ các cháu đã nắm được những kiến thức chăm sóc nuôi dạy con theo khoa học, hiểu được tầm quan trọng của chế độ ăn uống, dinh dưỡng hợp lý cho con mình, từ đó phối hợp tốt cùng với nhà trường để rèn luyện những thói quen hành vi ăn uống vệ sinh, đúng giờ giấc...Tạo thành nề nếp bền vững ở trường cũng như ở gia đình
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua thời gian nghiên cứu tìm tòi “Một số biện giúp trẻ 4 – 5 tuổi ăn ngon miệng, hết suất” để áp dụng vào thực tiễn việc “Nâng cao chất lượng bữa ăn và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ’’ ở trường mẫu giáo là vô cùng cần thiết và luôn đồng hành với trẻ, vì vậy bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau :
- Trước hết giáo viên phải hiểu rõ việc “Tạo cho trẻ phản xạ ăn uống có điều kiện tốt” là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình tổ chức bữa ăn cho trẻ…
- Giáo viên phải thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ “Giờ nào việc ấy”, bên cạnh đó giáo viên cần nắm vững những kiến thức về đặc điểm tâm sinh lý của sự ăn uống từng lứa tuổi trẻ, những yếu tố ảnh hưởng đến bữa ăn của trẻ và quá trình hình thành thói quen ăn uống có văn hóa của trẻ để từ đó khắc phục được những nguyên nhân hạn chế của việc tổ chức bữa ăn cho trẻ lớp mình có hiệu quả hơn...
- Để tổ chức bữa ăn cho trẻ thật hứng thú, đạt hiệu quả cao trong bữa ăn thì các cô phải nắm bắt kiến thức ăn uống, nhận thức được tầm quan trọng của bữa ăn đối với trẻ, giá trị dinh dưỡng trong bữa ăn cháu hứng thú ăn, ăn ngon miệng thì tiêu hóa tốt...để từ đó vận dụng các biện pháp tổ chức bữa ăn cho trẻ sao cho phù hợp bên cạnh đó việc tạo cho trẻ thói quen nề nếp trong giờ ăn cũng rất quan trọng tạo thành những phản xạ có điều kiện cho trẻ
- Trong giờ ăn giáo viên luôn linh hoạt biết tạo tình huống dẫn dắt đến các món ăn, biết cách giới thiệu món ăn hấp dẫn tùy vào từng hoàn cảnh để chào đón các cháu vào bữa ăn cũng góp một phần rất lớn vào hứng thú giờ ăn của trẻ
- Luôn cập nhật thông tin về cách chăm sóc – giáo dục trẻ để mở rộng hiểu biết cho mình và tìm hiểu tên các món ăn, thành phần món ăn để giới thiệu cho trẻ sao cho hấp dẫn trẻ dễ hiểu, dễ nhớ và ham thích được ăn..
- Tổ chức lồng ghép dinh dưỡng, các thực phẩm bằng nhiều hình thức trò chơi, bài tập vào các hoạt động trong ngày cho trẻ, tạo cảm giác cho trẻ không còn sợ ăn mà thích thú được tìm hiểu các món ăn, được ăn món ăn đó và ăn ngon miệng…
Với một số biện giúp trẻ ăn ngon miệng, hết suất như trên bản thân tôi đã có một phần kinh nghiệm đưa vào thực hiện và mang lại hiệu quả thiết thực trong việc nâng cao chất lượng bữa ăn , phòng chống suy dinh dưỡng cũng như chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng của đội ngũ cán bộ giáo viên . Chúng tôi tiếp tục duy trì và phát huy để không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ngày một tốt hơn .
VI. KẾT LUẬN :
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu và thực hành tổ chức tạo hứng thú trong bữa ăn của trẻ, tôi rút ra được một số kết luận sau :
- Giáo viên nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của bữa ăn đối với sự phát triển thể chất của trẻ như:: Tâm sinh lý ăn uống, các điều kiện để có bữa ăn ngon, những nguyên nhân ảnh hưởng đến bữa ăn trưa của trẻ... Để có được điều đó đòi hỏi giáo viên phải thực sự nổ lưc, yêu nghề và yêu thương trẻ có tinh thần trách nhiệm cao...
- Cần phải cho trẻ tham gia tích cực vào tất cả các hoạt động trong chế độ sinh hoạt, quán triệt phương châm “Học mà chơi, chơi mà học” giúp cho trẻ thật sự thoải mái trong mọi hoạt động, trẻ cảm thấy gắn bó với trường lớp, cô giáo và bạn bè xung quanh. Cô luôn tạo cho trẻ không khí vui tươi, thân thiện
+ Qua các bữa ăn tổ chức cho trẻ ở trường với tất cả những nội dung giáo dục chăm sóc các cháu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hình ảnh, hoạt động mẫu,thực hành... bằng cách trang trí chuẩn bị bữa ăn, cách chào đón, giới thiệu món ăn...một cách sống động và trung thực tạo cho trẻ tâm trạng hào hứng chào đón bữa ăn...Các cháu ăn cảm thấy ngon miệng, tiêu hóa tốt...sức khỏe ngày một tốt và tăng cân tốt...
- Cần có sự phối hợp chặc chẽ giữa nhà trường và gia đình để gia đình nắm bắt được những kiến thức khoa học về dinh dưỡng, tổ chức bữa ăn cho trẻ, tạo cho trẻ các thói quen vệ sinh ăn uống tốt, ăn uống đúng giờ giấc...Hình thành ở trẻ phản xạ ăn uống có điều kiện tốt lúc nào trẻ ăn cũng cảm giác ăn ngon miệng, ăn hết suất
Trên đây là “ Một số biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi ăn ngon miệng, hết suất” của bản thân tôi rút ra từ thực tế trong thời gian tổ chức các bữa ăn trong ngày cho trẻ 4 – 5 tuổi của lớp chồi 1 ở trường mẫu giáo An Bình. Tôi rất mong nhận được những ý kiến nhận xét đóng góp hội đồng thẩm định trường, Phòng giáo dục thị xã góp ý bổ sung vào sáng kiến kinh nghiệm này để bản thân tôi có kinh nghiệm nhiều hơn đưa vào thực hiện chăm sóc nuôi dưỡng trẻ mầm non trong những năm học tiếp theo góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục nói chung và sự nghiệp chăm sóc giáo dục mầm non nói riêng ngày càng phát triển .