CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận và lí do chọn đề tài
2. Mục đích
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
2. Khó khăn
III. GIẢI PHÁP HỮU ÍCH
1. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ
2. Xây dựng kế hoạch
3. Làm đồ dùng đồ chơi
4. Phối hợp với các bậc phụ huynh
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Dạy trẻ kể lại truyện, chơi đóng kịch và đóng vai theo chủ đề
2. Thông qua các hoạt động khác
a. Hoạt động ngoài trời
b. Hoạt động góc
3. Thông qua tuyên truyền với phụ huynh
4. Kết quả
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
VI. KẾT LUẬN
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận và lí do chọn đề tài
Chưa làm mẹ nhưng chứa chan tình mẹ Bởi yêu nghề nên quý lớp măng non
Dạy tiếng mẹ để cho trẻ tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao
tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân
cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao
tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như:
Môi trường xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình…mà điều tôi muốn nói ở đây đặc biệt là thông qua bộ môn làm quen văn học. Bộ môn làm quen văn học dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, đóng
kịch… tạo cho trẻ được hoạt động nhiều. Việc phát triển vốn từ
luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp… không thể tách rời
giaữ các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ cung cấp
cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với
âm thanh và tình huống sử dụng chúng. Nội dung vốn từ cung cấp
cho trẻ cũng như hình thức ngữ pháp phải phụ thuộc vào khả năng
tiếp xúc, hoạt động và nhận thức của trẻ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong
chương trình giáo dục toàn diện trẻ. Chương trình phát triển ngôn
ngữ cho trẻ đã được nhà giáo dục mầm non Liên Xô nổi tiếng: Eiti
– Khê va xem là khâu chủ yếu nhất của hoạt động trong trường
mầm non, là tiền đề thành công của các công tác khác.
Hiện nay việc trẻ em của chúng ta nói trỏng, không đủ câu, trọn
nghĩa chiếm một số lượng không nhỏ và rất khó cho việc tiếp cận
với các tác phẩm văn học bởi vì trẻ một phần nghèo nàn về vốn từ,
một phần trẻ không biết phải diễn đạt sao cho mạch lạc. Vì vậy tôi
chọn đề tài “Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua bộ môn làm quen văn học thể loại truyện kể” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích:
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe,
hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic, có trình tự, chính xác
và có hình ảnh một nội dung nhất định. Để luyện cho lời nói của trẻ được mạch lạc cần giúp trẻ thực hiện
những yêu cầu sau:
* Lựa chọn nội dung nói:
Xác định nội dung cần nói giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông
báo ngắn gọn, rõ ràng. Xác định sự việc chính trong nhiều sự việc,
xác định đặc điểm nổi bật cơ bản trong nhiều đặc điểm của con vật,
của cây, của bức tranh, nội dung chính trong phát triển văn học.
Ví dụ: Đồ vật: Tả hình dáng bên ngoài, công dụng, cách sử dụng.
Con vật: Hình dáng, hành động.
Cây: Hình dáng bên ngoài, sự thay đổi theo mùa. - Sắp xếp nội dung đã lựa chọn giúp cho lời nói của trẻ được đầy
đủ, hợp lí và có logic.
Ví dụ: Từ đầu đến chân, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ
trái sang phải…
Trẻ tuổi mẫu giáo chưa có khả năng lựa chọn nội dung diễn đạt vì vậy cần phải hướng dẫn để giúp trẻ. Lựa chọn từ:
Sau khi đã lựa chọn nội dung trẻ cần lựa chọn từ để diễn tả chính
xác nội dung mình cần thông báo. Chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ ràng, chính xác và mang sắc thái biểu cảm. Việc chọn từ được
đặt ra ở 2 mức độ. - Mức độ thứ nhất: chọn từ phù hợp với nội dung. Ví dụ: đi, chạy… - Mức độ thứ hai: Chọn từ mang sắc thái tư từ. Ví dụ: lật đật, lon
ton, lom khom…Đây là một việc khó đối với trẻ, giáo viên cần
hướng dẫn và làm mẫu cho trẻ bắt chước, đặc biệt là việc chọn từ
mang sắc thái tư từ chủ yếu được dùng thông qua việc cho trẻ làm
quen với các tác phẩm văn học. Ví dụ: câu chuyện: Cây khế: chim phượng hoàng chở người anh đi
lấy vàng. Vừa đến nơi người anh đã vội vàng nhét đầu túi 6 gang.
Cô cho trẻ làm quen từ “vội vàng” bằng cách giải thích từ khó, cho
trẻ lặp lại, thể hiện bằng hành động, hướng dẫn cháu đặt câu.
* Sắp xếp cấu trúc lời nói:
- Sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm
diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dùng nào đó để giúp người nghe
hiểu được. Đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thông báo một cách
có logic.
- Để diễn tả một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó thì việc sắp xếp
cấu trúc lời nói là đơn giản đối với trẻ. Nhưng nếu yêu cầu trẻ kể lại
truyện hay tự sáng tác miêu tả những hiện tượng sự kiện xảy ra
trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn cần phải luyện tập dần dần.
* Điễn đạt nội dung nói:
- Khi trẻ diễn đạt phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói
của trẻ không ê a ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói thoải mái,
tự nhiên, khi nói nhìn vào mặt người nói.
Trong trường mầm non tôi muốn đề cập tới việc luyện cho trẻ ngôn
ngữ mạch lạc thể hiện qua việc thực hiện hai nhiệm vụ dạy trẻ đối
thoại giữa trò chơi và độc thoại qua bộ môn làm quen văn học thể
loại truyện kể.
Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ mạch lạc được thực hiện ở mọi lúc
mọi nơi trong sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Đối ới trẻ lớp tôi đang
phụ trách 4 – 5 tuổi: Tiếp tục dạy trẻ biết nghe - hiểu - trả lời câu
hỏi của người lớn. Biết trò chuyện với những người xung quanh.
Dạy trẻ kể chuyện về đồ chơi, đồ vật theo tranh, kể lại các tác phẩm
văn học, kể có trình tự, diễn cảm.
II. THỰC TRẠNG:
Tôi là giáo viên phụ trách lớp mẫu giáo nhỡ gồm 38 cháu. Trong số này có 19 cháu đã học qua lớp mầm, còn 19 cháu chưa được học
qua trường lớp mẫu giáo.
1. Thuận lợi:
Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn xây dựng
phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non,
tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình đổi mới.
Phụ huynh quan tâm đến con em mình, nhiệt tình ủng họ cùng tôi
trong việc dạy dỗ các cháu và thường xuyên ủng họ những nguyên
vật liệu để làm đồ dùng dạy học và vui chơi cho các cháu.
2. Khó khăn:
Do trình độ nhận thức không đồng đều, gần 50% trẻ lớp tôi mới lần
đầu đến trường, số trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ, do đó gặp rất nhiều
khó khăn. - Hơn 50% trẻ chưa phân biệt được sự khác nhau rất tinh tế trong
cách phát âm mà chỉ tiếp nhận một cách chung chung.
Ví dụ: tay – tai, muỗi – mũi, phân biệt l – n.
- 45% khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không đều, không ổn định,
vì vậy nên trẻ chưa chú ý đều đến các thành phần torng câu, trong
từ. Vì vậy những âm điệu được đọc lướt, những từ không nhấn
mạnh trong câu trẻ dễ bỏ qua, không chú ý. - Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm
tiếp thu cũng như trật tự các từ trong câu. Vì thế trẻ bỏ bớt từ, bớt
âm khi nói.
-70% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng. - 35% trẻ nói, phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn
xung quanh trẻ (nói tiếng địa phương)
- Đa số phụ huynh bận công việc hoặc mốt lí do khách quan nào đó
ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ được đáp ứng
quá đầy đủ về nhu cầu mà trẻ cần. Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào đồ dùng, đồ vật nào là được đáp ứng ngay mà không cần dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
của việc chậm phát triển ngôn ngữ. Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao
tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học thể loại truyện kể.
III. GIẢI PHÁP HỮU ÍCH:
1. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ:
* Đặc điểm phát âm: - Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ, ít ê a, ậm ừ. Trẻ vẫn còn
phát âm sai những âm thanh khó hoặc những từ có 2 – 3 âm tiết
như: lựu - lịu, hươu – hiu, mướp - mớp, chiêm chiếp – chim chíp,
thuyền buồm - thiền bờm, rắn - dắn… Tuy nhiên lỗi sai đã ít hơn.
* Đặc điểm vốn từ:
- Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng 1300 – 2000 từ . Danh từ và động từ ở trẻ vẫn chiếm ưu thế. Tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn.
- Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao
- thấp, dài- ngắn, rộng - hẹp, các từ chỉ tốc độ như: nhanh - chậm,
các từ chỉ màu sắc: Đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ có khái
niệm tương đối như: hôm qua, hôm nay, ngày mai…trẻ dùng còn
chưa chính xác. Một số trẻ còn biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như:
Xám, xanh lá cây, tím, da cam.
- 100% trẻ biết sử dụng các từ cao, thấp, dài, ngắn, rộng, hẹp. có
55% số trẻ đếm được từ 1 – 10. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác. Ví dụ: Mẹ có mót ngồi không? (muốn)
* Đặc điểm ngữ pháp: - Câu trẻ dùng đã chính xác và dài hơn. Ví dụ: Cô ơi, con thấy có mấy cọng rác nè. Con đem bỏ thùng rác cô nhé! (Cháu Nhật Đăng) - Trẻ đã sử dụng các loại câu phức khác nhau. Ví dụ: Câu phức
đẳng lập: Tích Chu đi chơi, Tích Chu không lấy nước cho bà.
(Cháu Phước). Câu ghép chính phụ: Cháu thích chơi lắp ráp nhà
thôi, xây được nhà đẹp thì bạn Phương lại gỡ ra rồi. (Cháu Quang).
- Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ dùng từ trong câu vẫn chưa thật chính xác: Ví dụ: Mẹ ơi! Con
muốn cái dép kia! ( phụ huynh cháu Sơn kể lại).
Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở rộng. - Trẻ có khả năng kể lại chuyện và kể chuyện có trình tự logic. Thế
nhưng qua tìm hiểu quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ lớp chồi,
tôi so sánh với lớp tôi thì đa phần trẻ vẫn chưa có khả năng kể
chuyện và kể chuyện có trình tự logic.
2. Một số biện pháp giúp trẻ học tố môn làm quen văn học thể
loại truyện kể:
a. Tạo môi trường học tập, rèn luyện cho trẻ:
- Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các
học cụ, đội hình để tạo môi trường học và thải mái cho trẻ. Ví dụ: Khi thực hiện các hoạt động làm quen văn học thể loại
truyện kể mà trọng tâm là dạy kể chuyện sáng tạo thì tôi luôn tận
dụng không gian lớp học để bày dụng cụ kể chuyện, khung sân sấu,
sắp đặt tranh và các con rối sao cho trẻ dễ sử dụng, kích thích trẻ
hoạt động tích cực hơn.
- Chú ý đến khả năng phát âm của trẻ để có sự điều chỉnh và sửa
sai, rèn luyện khả năng ngôn ngữ cho trẻ. - Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng
kể, cách sử dụng tranh, sách tranh, rối, mô hình… để giúp trẻ cảm
thụ đước tác phẩm văn học đó một cách tốt nhất. b. Tổ chức tiết học nhẹ nhàng, linh hoạt:
Toi vào bài một cách sinh động để thu hút sự chú ý của trẻ. Ví dụ: Chủ điểm: “ Các nghề phổ biến, ngày 22/12” khi dạy với đề tài nghề xây dựng. Kể chuyện: “Ba con lợn nhỏ”, tôi sử dụng mô hình rối để gây sự hứng thú cho trẻ. - Tổ chức hoạt động đa dạng dựa vào hoạt động trọng tâm.
Ví dụ: Khi trọng tâm là kể chuyện sáng tạo, tôi cho trẻ lựa chọn cáh
sử dụng trang phục, đồ dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ kể… dựa theo các hình thức khác nhau.
c. Sử dụng các loại rối, trang phục, mô hình, học cụ thu hút sự
chú ý của trẻ:
- Tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: Muỗng gỗ, thanh tre, ly
nhựa, nắp thiếc, hộp sữa, lõi giấy vệ sinh… để làm thành những con
rối xinh xắn. Trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích.
Ví dụ: Từ lõi giấy vệ sinh ta kết hợp với quả banh làm phần đầu
con rối, tóc làm bằng đất nặn, miếng xốp trái cây bọc ra ngoài lõi
giấy làm áo đầm và chú ý trang trí đa dạng màu sắc để thu hút trẻ.
Có thể hướng dẫn để cháu làm theo.
- Để làm trang phục cho trẻ tôi dùng: Vải vụn, mút bitis, giấy, lá cây tạo nhiều kiểu dáng trang phục lạ mắt. d. Chú ý rèn nề nếp, rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ: - Trẻ biết chia nhóm kể chuyện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, mạnh
dạn, nhanh nhẹn và linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn hoặc đóng kịch. - Tạo điều kiện cho trẻ tự thỏa thuận và tự chọn vai kể theo ý thích
về sự sáng tạo của trẻ. Có thể dùng lời để khuynế khích , động viên
trẻ thực hiện các vai diễn sáng tạo. e. Làm quen văn học thể laọi truyện kể kết hợp với các bộ môn khác:
- Theo phương pháp dạy học tích hợp các bộ môn làm quen văn học có thể lồng ghép, kết hợp với tất cả các bộ môn khác và giúp
cho các bộ môn khác trở nên sinh động hơn.
Ví dụ: Môn Âm nhạc:
Đề tài: Câu chuyện: “ Cây táo thần” có thể cho trẻ hát và vận động
bài “ Gieo hạt, trồng cây” Đề tài: “Nhổ củ cải”, cho trẻ vận động theo bài: “Củ cải trắng”.
Môn MTXQ:
Đề tài: Động vật nuôi trong gia đình, câu chuyện “Gà trống, mèo
con và cún con”, trẻ biết tên, đặc điểm, nơi sống của một số con vật
nuôi trong gia đình. Môn Toán:
Đề tài: “ Cao hơn - thấp hơn” Câu chuyện: “Cây khế”.
Trẻ áp dụng được sự so sánh đặc điểm về ngoại hình của hai anh em.
d. Tổ chức ôn luyện mọi lúc mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội:
- Ôn luyện mọi lúc mọi nơi cũng là một biện pháp giúp ổn định trẻ.
Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội tôi tổ chức hoạt động kể
chuyện, đóng kịch theo một chương trình biểu diễn văn nghệ mà
100% trẻ được tham gia nhằm giúp trẻ hứng thú với bộ môn làm
quen văn học thể loại truyện kể cho trẻ. Ví dụ: Lễ hội 22/ 12 trẻ kể chuyện sáng tạo về chú bộ đội, tết
dương lịch, các hội thi bé kể chuyện giỏi.
e. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh:
- Làm bảng tin về chương trình dạy theo chủ đề và thay tin hàng
tuần để phụ huynh biết và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm
cho trẻ ở nhà. - Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu mở: Thùng giấy, sách báo cũ,
chai nhựa, quần áo cũ, dụng cụ hóa trang…
3. Xây dựng kế hoạch:
Tôi xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ theo
từng quý xuyên suốt trong một năm học:
Tháng 9 + 10: Tôi chú ý chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ
nhằm phát triển thính giáng âm vị ( cho trẻ nghe những bài hát,
những câu chuyện, những bài đồng dao…). Tôi tạo mọi điều kiện để
trẻ tập trung chú ý luyện khả năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua
các bài tập, trò chơi (tai ai thính, ai đoán giỏi…), Cố gắng phát âm
đúng, không phát âm sai vì trẻ hay bắt chước. Sửa lỗi phát âm cho
trẻ khi phát âm sai mọi lúc mọi nơi trong các hoạt động hàng ngày.
Tháng 11 + 12: Tôi tập trung vào việc làm thế nào để tăng vốn từ
cho trẻ?
Giáo viên cần nói diễn cảm, rõ ràng, giải thích nghĩa của từ khó
giúp cho trẻ nhiểu, nhớ và vận dụng được từ để đặt câu. Để đẩy
mạnh sự phát triển khả năng vận động cảu cơ quan phát âm cần tập
cho trẻ các bài tập luyện cơ quan phát âm thích hợp:
Con có cái ca, cô cắt quả cà, con cầm cái ca, cùng cười ha ha.
Có con ba ba, đội nhà đi trốn, bì bà bì bõm, bé bắt ba ba.
Bà bảo bé, bé búp bê, bé bồng, bé bé, búp bê ngoan nào. Có những trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Trò chơi đố con
gì kêu, đố ai kể được nhiều nhất, đố ai nhanh , đố ai nói giỏi, đố ai
nói ngược.
Tháng 1 + 2: Vẫn xuyên suốt hai nhiệm vụ ở trên nhưng tôi đào
sâu vấn đề luyện trí nhớ cho trẻ qua các bài thơ, đồng dao đặc biệt
là những câu chuyện kể đầy lôi cuốn và hấp dẫn. Gợi ý cho trẻ sử dụng những loại câu đơn giản, đủ nghĩa.
Tháng 3 +4 +5: Tôi xây dựng những trò chơi giúp trẻ nói đúng ngữ
pháp, nói mạch lạc. Ví dụ: Trẻ “ nói theo mẫu câu” của một câu
chuyện nào đó: “Người anh tham lam chiếm hết ruộng vườn, nhà cửa, trâu bò của cha mẹ để lại” ( Truyện cây khế) hoặc “nói nốt
câu” Ví dụ: Cô nói: Bà biến thành chim vì…Trẻ nói: bà muốn ba đi
tìm nước uống, hoặc vì Tích Chu ham chơi không lyấ nước cho
bà…Cô lưu ý thay đổi các mẫu câu khác nhau tùy theo lứa tuổi, cho
trẻ chơi từ dễ đến kh1, các mẫu câu phức tạp dần lên hoặc “đặt câu
với từ”, “kể nốt truyện”, “kể chuyện”…để củng cố kỹ năng nói
đúng ngữ pháp, phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ. Một khi đã có một số lượng vốn từ phong phú trẻ sẽ tự tin kể
chuyện, đóng kịch… một cách hứng thú và tự tin nhất.
4. Làm đồ dùng đồ chơi:
- Tôi tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thể sử dụng làm đồ
chơi: Sách báo, lịch cũ, lõi giấy vệ sinh, ống lon, chai nhựa, xốp, vải
vụn, cành cây khô, quần áo cũ nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách cụ thể mỗi chủ đề đều có một bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ
cho quá trình giảng dạy và vui chơi của trẻ.Hàng tháng tôi và các
cháu đều sử dụng những vật liệu có sẵn như giấy vụn, các laọi lá,
các màu, hạt bột… để xé dán thành những cuốn tranh truyện do trẻ tự làm bằng những hình ảnh sưu tẩm được, gọi ý cho trẻ tự kể
chuyện theo trí tưởng tượng của trẻ. - Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy… Tôi hướng dẫn trẻ làm các
con rối thật xinh xắn từ những câu chuyện cổ tích trẻ được học
hoặc được nghe hoặc làm các nhân vật theo sự sáng tạo của trẻ. - Khi kể chuyện tôi thường sử dụng những loại sách tranh truyện do
đó việc vẽ trang trí cũng góp phần làm cho trẻ hứng thú khi nghe,
xem hoặc muốn được sử dụng sách. Trẻ sẽ biết cách sử dụng sách
và giữ gìn sách, tranh truyện hơn.
5. Phối hợp với phụ huynh:
- Tôi thường trao đổi, động viên phụ huynh cố gắng dành thời gian
để tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải
nói rõ ràng mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ. - Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng để trẻ bắt chước. - Khuyến khích hoặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh
nghiệm sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, cần tránh
cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua bộ môn làm
quen văn học thể loại truyện kể, tôi cho trẻ kể lại truyện, chơi
đóng kịch và đóng vai theo chủ đề:
* Dạy trẻ kể lại truyện:
- Trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm tác phẩm văn học mà
trẻ đã được nghe. Trẻ sử dụng nội dung, hình thức ngôn ngữ đã có sẵn của các tác giả và của giáo viên. Tuy nghiên yêu cầu trẻ không
học thuộc lòng câu chuyện. Trẻ phải kể bằng ngôn ngữ của chính
mình, truyền đạt nội dung câu chuyện một cách tự do thoải mái
nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện. - Yêu cầu đối với trẻ:
+ Kể nội dung chính của câu chuyện, không yêu cầu trẻ kể chi tiết
toàn bộ nội dung tác phẩm. Lời kể phải có các cấu trúc ngữ pháp.
Khuyến khíc trẻ dùng ngôn ngữ của chính mình kể lại. Giọng kể
diễn cảm, to, rõ, không ê a ấp úng, cố gắng thể hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại.
+ Chuận bị: Tiến hành trước giờ học, kể chuyện cho trẻ nghe.
Trước khi kể cô giao nhiệm vụ ghi nhớ và kể lại.
+ Tiến hành: Đàm thoại với trẻ về nội dung câu chuyện. Đàm thoại
nhằm mục đích giúp trẻ nhớ lalị nội dung câu chuyện, giúp trẻ xây
dựng dàn ý câu chuyện kể, lựa chọn hình thức ngôn ngữ (cách dùng
từ đặt câu).
Ví dụ: Truyện cây khế: Theo con tính cách người em như thế nào?
+ Yêu cầu với câu hỏi: Đặt câu hỏi về tên nhân vật, thời gian,
không gian, hành động chính, lời nói, cá tính nhân vật, không nên
đặt quá nhiều câu hỏi chi tiết vụn vật. Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh
trí: Dê mẹ dặn dê con như thế nào? Câu hỏi phải phù hợp với trẻ cả về hình thức ngữ pháp và nhận thức. Khi đàm thoại cô cần lưu ý
giới thiệu cho trẻ biết thêm các từ đồng nghĩa những cụm từ thay
thế để tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ để kể. Tôi dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của
trẻ kể lại nội dung tác phẩm: Cô kể diễn cảm, lời kể có các mẫu câu
cần luyện cho trẻ (mới). Mẫu truyện của cô có tác dụng chỉ cho trẻ
thấy trước kết quả trẻ cần đạt được: Về nội dung, độ dài, trình tự câu chuyện. Ví dụ: Câu chuyện cây khế: Ngày xửa ngày xưa có hai anh em nhà
kia cha mẹ mất sớm. Khi người anh lấy vợ, người anh không muốn
ở chung với người em nữa. Người anh tham lam chiếm hết ruộng
vườn, trâu bò, nhà cửa cảu cha mẹ để lại, chỉ cho người em một cây
khế và một túp lều nhỏ.
+ Thời gian đầu khi chưa quen trẻ kể theo mẫu cảu cô (hoặc đối với
trẻ kém). Khi trẻ đã quen cô khuyến khích trẻ kể bằng ngôn ngữ của mình. Tôi đặc biệt lưu ý khi trẻ kể:
Trẻ phải quay mặt xuống các bạn, kể với tốc độ vừa phải, giọng rõ ràng, tư thế tự nhiên. Trong quá trình kể, trẻ đứng sai tư thế, phát
âm sai cô nên để trẻ kể xong mới sửa cho trẻ.
Khi cô gọi trẻ lên, trẻ không kể, cô nên đặt câu hỏi gợi ý để trẻ trả lời giúp trẻ mạnh dạn, có thói quen giao tiếp tốt. Nếu trẻ quên, cô có thể nhắc hoặc đặt câu hỏi cho trẻ nhớ.
Trẻ kể xong, cô nhận xét, đánh giá truyện kể của trẻ, không nên để đến cuối giờ trẻ sẽ quên mất những ưu nhược điểm của mình hay
của bạn. Cô cần nhận xét đúng, chính xác để có tác dụng khuyến
khích, động viên trẻ, nhận xét cả về nội dung, ngôn ngữ tác phong.
* Chơi đóng vai theo chủ đề:
- Khi chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào cuộc nói
chuyện với bạn để phan vai, trao đổi với nhau trong khi chơi, trẻ bắt
chước các nhân vật mà trẻ đóng vai, làm cho ngôn ngữ đối thoại
của trẻ thêm phong phú và đa dạng. Ví dụ: Chủ đề: Giai đình: Nấu ăn: Trẻ tự phân vai chơi của mình:
Mẹ đi chợ, nấu ăn, chăm sóc các con, ba đi làm, ông bà kể chuyện
cho các cháu nghe.
* Chơi đóng kịch:
- Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát
triển ngôn ngữ đối thoại cho trẻ. Nội dung kịch được chuyển thể từ tác phẩm văn học mà trẻ đã được làm quen. Trẻ làm quen với các
mẫu câu văn học đã được gọt giữa chọn lọc. Khi đóng trẻ cố gắng
thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật mà trẻ đóng, giúp cho
ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt. Ví dụ: Chủ đề: Gia đình, câu chuyện Tích Chu.
Cháu Quốc Tuấn đóng vai Tich Chu ( lúc đầu ham chơi, thái độ
không vâng lời), sau biết lỗi (tỏ thái độ biết nhận lỗi, giọng trầm): Bà
ơi, bà ở đâu? Bà ở lại với cháu. Cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!
Cháu Cẩm Tú đóng vai bà (giong run run, dứt khoát): Bà đi đây! Bà
không về nữa đâu!
Cháu Phương Anh đóng vai Bà Tiên (tính cách hay giúp đỡ mọi
người, giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ): Nếu cháu muốn bà cháu trở lại
thành người thì cháu phải đi lấy nước suối tiên cho bà cháu uống.
Đương lên suối tiên xa lắm, cháu có đi được không?
2. Ở các hoạt động khác dạy trẻ kể lại những sự vật hiện tượng
trẻ quan sát được.
a. Hoạt động ngoài trời:
Dạy trẻ kể về những hiện tưởng, sự kiện trong cuộc sống hàng
ngày, những điều trẻ đã biết, tưởng tượng… Trẻ phải tự chọn nội
dung, hình thức ngôn ngữ sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định. Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo hai dạng: Kể chuyện miêu tả, kể
chuyện theo chủ đề.
* Kể chuyện miêu tả: Tôi dạy trẻ nêu tên, đặc điểm theo thứ tự
khảo sát, tính liên hệ, kết thúc nêu ý nghĩa hoặc hành động. Ví dụ: miêu tả hiện tượng thời tiết: trời âm u, may đen, gió thổi
mạnh trời sắp mưa.
* Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại
những sự kiện xảy ra trong một thời gian nhất định của nhân vật
nào đó. Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh trí : Con cáo giả làm dê mẹ lúc dê mẹ đi vắng, nó giả giọng dê mẹ, nó nhúng chân vào bột cho chân trắng
giống dê mẹ. Nhưng cáo vẫn bị dê con phát hiện ra và đuổi cáo đi.
b. Hoạt động góc:
* Dạy trẻ kể chuyện theo tri giác: Không ngừng phát triển ở trẻ
ngôn ngữ độc thoại, nên cho trẻ nói đúng ngữ pháp, tư thế tác
phong khi nói mà còn góp phần phát triển tốt các cơ quan cảm giác
của trẻ. Bởi vì trẻ có quan sát tốt mới kể miêu tả được chính xác. - Mục đích: phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, phát triển tư duy
logic, khả năng quan sát. Tôi tập trung dạy cho trẻ kể chuyện tri giác
theo 3 loaọi: Kể về đồ chơi, kể về vật thật, kể chuyện theo tranh.
- Chuẩn bị:
+ Chọn đồ chơi: Đồ chơi đẹp, màu sắc rõ rangà, tươi sáng, hấp dẫn
về hình thức để làm cho trẻ thích thú, rung động khi kể.
+ Chọn vật thật: Có thể là đồ dùng hàng ngày: Gương, lược, khăn,
ly, chén, váy áo, tàu xe, xe máy, túi sách…Những công cụ lao
động: Cuốc, xẻng, máy giặt… Súc vật nuôi trong nhà: Mèo, chó,
gà… Cây trồng, hoa, thiên nhiên, phong cảnh…cho trẻ kể về những
đồ vật từ đơn giản đến phức tạp.
+ Chọn tranh: Nên chọn tranh có màu sắc tươi sáng, bố cục rõ ràng,
không có quá nhiều chi tiết rườm rà. Có thể là tranh đơn hoặc tranh
liên hoàn. - Tổ chức cho trẻ làm quen với tranh hoặc vật thật trước một vài hôm
để trẻ quan sát, xác định màu sắc, đặc điểm, cách chơi, cách sử dụng.
-Thời gian đầu trẻ kể theo mẫu của cô. Dau đó có thể là trẻ yếu kể
theo mẫu của cô. Để tập cho trẻ kể, cô có thể cầm con rối để kể từng câu một. Sau đó đặt câu hỏi để trẻ kể về con rối của trẻ. Ví dụ: Búp bê của cô là người anh nhé, còn của con là gì?
Người anh có nhà to, nhiều trâu bò, ruộng vườn. Còn người em có gì?
Khi trẻ kể thạo, trẻ tự kể mà không cần mẫu của cô.
Khi trẻ kể tôi thường nhắc trẻ: Trẻ phải đứng quay mặt về phía các
bạn. Giọng kể rõ ràng, tốc độ hợp lí, tư thế tự nhiên thoải mái. Khi
trẻ kể tác phong không đúng, trẻ kể sai, phát âm ngọng… cô nên để
trẻ kể xong rồi mới sửa, nhận xét nhưng không nên dừng lại quá lâu. Nếu trẻ quên hoặc không nói, cô đặt câu hỏi gợi ý giúp trẻ. Sau
khi trẻ kể, cô nhận xét đánh giá truyện kể của từng trẻ ngay, không
nên để cuối giờ học.
* Dạy trẻ kể chuỵên theo trí nhớ:
- Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc, ghi rõ mẫu câu cần luyện.
- Chọn đề tài phù hợp với nhận thức và kinh nghiệm của trẻ. Để trẻ
nghi nhớ một cách có chủ đích chuẩn bị kể được tốt, tôi thường
giao nhiệm vụ trước cho trẻ. Ví dụ: Ngày mai là ngày cuối tuần, các con ở nhà làm gì? Các con
chú ý nhớ những việc đã làm hoặc được đi chơi thế nào để kể lại
cho cô nhé.
Trước tiên tôi chọn những đề tài chung (hoạt động mà cả lớp cùng
tham gia) khi trẻ đã quen với cách kể, cô cho trẻ kể theo kinh
nghiệm của trẻ.
* Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo: - Yêu cầu: truyện kể mạch lạc, logic, các câu nói đúng ngữ pháp,
thể hiện rõ ngôn ngữ đàm thoại hay độc thoại trong khi kể. Các dạng kể chuyện sáng tạo: Kể nốt truyện, kể theo đề tài và dàn ý
cho trước, kể theo chủ đề tự chọn, kể theo mô hình. - Chuẩn bị: Cô kể một đoạn truyện rồi yêu cầu trẻ suy nghĩ kết thúc
câu chuyện (giao nhiệm vụ). Cô cho trẻ xem mô hình trước một
ngày, đàm thoại gợi ý. Gợi ý trước đề tài để trẻ tự suy nghĩ.
- Tổ chức sinh động để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ xây dựng câu chuyện một cách hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân. - Một số cháu đã kể chuyện được khi sử dụng mô hình, sách tranh,
con rối, tranh ảnh sưu tầm… Sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tạo mọi cơ hội cho trẻ được kể chuyện sáng tạo.
3. Thông qua tuyên truyền với phụ huynh:
Tuyên truyền dưới nhiều hình thức, bảng tuyên truyền đẹp, thay đổi
nội dung hình ảnh phù hợp với chủ đề. Ví dụ: Chủ đề: Thế giới thực vật - Tết nguyên đán: Bảng tuyên
truyền nên có hình ảnh phù hợp, những bài thơ, câu chuyện, bài hát,
đồng dao… có phần giao lưu giữa lớp với phụ huynh.
- Tuyên truyền phát thanh: Bài phát thanh có nội dung theo chủ đề,
những câu chuyện hấp dẫn lôi cuốn. Phát thanh vào giờ đón, trả trẻ để phụ huynh và cháu được nghe.
- Tuyên truyền qua các góc chơi, đặc biệt qua góc học tập sách: Có kệ để sách, treo tranh, hình ảnh xinh xắn… thay đổi thường xuyên
để lôi cuốn trẻ. - Giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón, trả trẻ:
động viên phụ huynh dành thời gian kể chuyện, độc truyện cho
cháu nghe trước khi đi ngủ, lắng nghe trò chuyện với con giúp con
phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Từ đó nhận ra sự phát triển ngôn
ngữ, tình cảm của trẻ như thế nào theo từng tháng. Vận động phụ
huynh đóng góp đồ dùng học tập phù hợp với chủ đề. Kết quả:
Qua một số biện pháp hữu ích tôi thấy đạt được kết quả như sau:
- 95% vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ nói rõ ràng mạch lạc hơn, nói
nhiều câu có nghĩa đầy đủ. Trẻ đã phân biệt được ý nghĩa một số từ.
- 85% Kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hẳn lên, trẻ hứng thú
tham gia học, phát biểu, kể chuyện và đóng kịch. - 80% đối với trẻ mới yếu chậm đã mạnh dạn tham gia vào các hoạt
động: Đóng kịch, kể chuyện. - 85% Trẻ biết kể chuyện sáng tạo và phát huy khả năng tưởng
tượng tốt. - 85% trẻ kể chuyện theo trí nhớ tốt. - 90% Trẻ tham gia đóng kịch thể hiện tốt vai diễn. - 90% Trẻ đã phát âm chính xác hơn, ít sử dụng ngôn ngữ địa phương.
- 100% Phụ huynh ủng hộ cho trẻ mang thêm đồ dùng, đồ chơi,
tranh ảnh, sách báo sưu tầm, truyện tranh phù hợp với chủ đề, góp
phần phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, trẻ hứng thú hơn khi học
môn làm quen văn học thể loại truyện kể.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Từ những kết quả trên rôi rút ra bài học kinh nghiệm khi dạy trẻ
phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua bộ môn làm quen văn học thể loại
truyện kể.
- Giáo viên cần nâng cao trình độ ngôn ngữ của chính bản thân
mình, coi ngôn ngữ là một phương tiện giáo dục chủ đạo. - Giáo viên phải thật sự yêu trẻ và nhẫn nại.
- Sưu tầm tranh ảnh có nội dung phù hợp, trao đổi kiến thức tự học
qua sách báo, internet, qua giáo viên đồng nghiệp. - Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt
yêu cầu cần đạt của giáo viên.
VI. KẾT LUẬN:
Luyện cho trẻ nói mạch lạc thông qua bộ môn làm quen văn học thể
loại truyện kể là sự tổng hợp toàn bộ nội dung rèn luyện ngôn ngữ.
Nói mạch lạc chứng tỏ ngôn ngữ của trẻ đã đạt yêu cầu cao về mặt
biểu hiện âm thanh, từ diễn đạt, câu đúng ngữ pháp cũng như sự mạnh dạn tự tin trong giao tiếp. Đề tài nghiên cứu naỳa sẽ làm cơ sử vững chắc cho việc học tập của trẻ những năm tiếp theo.
Trên đây là một số biện pháp hữu ích nhằm giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ mạch lạc qua bộ môn làm quen văn học. Tôi rất mong được sự
ủng hộ của các đồng nghiệm và của các cấp lãnh đạo.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Phương pháp dạy trẻ học nói thế nào – Tác giả: Kha-Hai-Nơ-Đich.
NXBGD1990
- Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 4-5 tuổi.
Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua bộ môn làm quen văn
học.
Website hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em: www.mamnon.com
- Tâm lí học trẻ em.