8 điều cần biết về bệnh thủy đậu
Dù không còn phổ biến như trước đây nhưng bệnh thủy đậu (trái rạ) vẫn xuất hiện và có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng ở trẻ em. Sau đây là những điều bạn cần phải biết về bệnh thủy đậu để có biện pháp phòng tránh.
Bệnh thủy đậu, còn gọi là trái rạ, là bệnh gây ra do virus varicella zoster. Mặc dù nhiều người trong chúng ta từng bị bệnh lúc nhỏ nhưng vẫn không thể hiểu rõ hết các thông tin về chúng. Các bác sĩ chuyên khoa nhi nói rằng nhiều năm trước, thủy đậu được xem là lành tính và không thể tránh khỏi khi còn bé. Tuy nhiên, ngày nay bệnh thủy đậu ít phổ biến nhờ có vắc xin phòng bệnh được sử dụng lần đầu tại Hoa Kỳ vào năm 1995. Sự thật là bệnh này thường nhẹ đối với đa số các bé, nó chỉ có thể nghiêm trọng hơn ở trẻ em, thiếu niên và người lớn. Hãy cùng Hello Bacsi đọc bài viết sau đây để các bố mẹ có thể hiểu hơn về bệnh thủy đậu.
1. Ban đỏ, ngứa da là dấu hiệu kinh điển của bệnh thủy đậu
Thủy đậu khởi đầu bằng những ban đỏ, bóng nước, ngứa trên da mặt và thân mình sau đó lan khắp cơ thể. Bóng nước có thể nổi khắp nơi bao gồm miệng, mí mắt và vùng sinh dục. Ban thủy đậu chuyển biến từ đỏ đến các bóng nước và sau đó là sẹo. Những triệu chứng khác của bệnh bao gồm sốt, nhức đầu và mệt mỏi. Bệnh thường xuất hiện từ 5–10 ngày.
2. Nguy cơ lây lan bệnh cao
Thủy đậu có thể lan nhanh chóng qua không khí khi người bệnh ho hay hắt xì. Bệnh cũng lây khi tiếp xúc với dịch tiết ra từ các ban bóng nước. Một người bị thủy đậu có thể lây cho người khác từ hai ngày trước khi phát ban và cho đến khi nốt trái rạ tạo thành sẹo. Nếu tiếp xúc với virus varicella zoster, phải cần khoảng 10–21 ngày mới phát bệnh. Nếu con bạn bị trái rạ, bé phải nghỉ học ở nhà cho đến khi ban hoàn toàn lành, thường trong khoảng 6–7 ngày sau phát ban. Cũng nên giữ trẻ tránh xa những bé khác chưa bị bệnh thủy đậu hoặc chưa tiêm vắc xin.
3. Bệnh thủy đậu thường nhẹ nhưng cũng có thể gây biến chứng rất nặng
Đối với phần lớn trẻ em đang khỏe mạnh, thì thủy đậu cùng những triệu chứng như ngứa, phát ban và mệt mỏi sẽ gây nhiều khó chịu hơn là nguy hiểm. Trong vài trường hợp, thủy đậu có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng như mất nước, viêm phổi, xuất huyết, viêm não (phù não), nhiễm trùng da, hội chứng sốc nhiễm độc và nhiễm trùng xương khớp. Những đối tượng như trẻ sơ sinh, thanh thiếu niên, người lớn, phụ nữ có thai và người suy giảm miễn dịch do bệnh hay thuốc, có nguy cơ cao bị biến chứng của trái rạ. Ngay cả trẻ em và người lớn khỏe mạnh cũng có thể bị bệnh thủy đậu trầm trọng. Theo trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ, trước khi có vắc xin thủy đậu, bệnh thủy đậu đã khiến 11.000 người Mỹ phải nhập viên và gây chết từ 100–150 người mỗi năm.
4. Thủy đậu gần như không còn phổ biến như trước đây
Trước khi vắc xin thủy đậu được đưa vào sử dụng ở Hoa Kỳ năm 1995, thủy đậu là một trong những bệnh phổ biến nhất ở trẻ em. Mỗi năm có hơn 4 triệu trường hợp mắc bệnh và 90% trẻ em mắc bệnh dưới 9 tuổi. Vào năm 2010, số trường hợp mắc trái rạ giảm hơn 80% ở trẻ em và 90% ở trẻ sơ sinh. Biện pháp để duy trì con số thấp này là bố mẹ nên cho trẻ chích ngừa đúng lịch.
5. Vắc xin thủy đậu là cách tốt nhất chống lại bệnh
Theo CDC và hiệp hội bác sĩ gia đình Mỹ, cách chắc chắn nhất để bảo vệ con bạn chống lại bệnh trái rạ là cho trẻ chích ngừa. Tác dụng hiệu quả của vắc xin đã được chứng minh trong khoảng thời gian hơn một thập kỷ. Hầu như 100% những người khỏe mạnh đều có thể ngăn ngừa được bệnh thủy đậu. Tỷ lệ hiệu quả cộng gộp là 80–85%, có nghĩa là 15–20% những người tiêm vắc xin có thể bị bệnh trái rạ nhưng họ sẽ bị nhẹ. Theo Bộ Y tế và sức khỏe Hoa Kỳ, họ sẽ bị ít hơn 50 nốt mụn rộp (so với 500 nốt trên người toàn phát không tiêm ngừa), không sốt hoặc sốt nhẹ, và ít triệu chứng khác hơn.
6. Để được bảo vệ tốt nhất, trẻ em (và người lớn) nên tiêm hai mũi vắc xin
DCD và AAP khuyến cáo trẻ em nên tiêm hai mũi vắc xin trái rạ; mũi thứ nhất lúc 12–15 tháng tuổi và mũi thứ hai lúc 4–6 tuổi (mũi thứ hai có thể sớm hơn cách mũi đầu ít nhất 3 tháng). Người trên 13 tuổi và lớn hơn cũng được khuyến khích tiêm ngừa. Họ cũng tiêm hai mũi cách nhau ít nhất 28 ngày.
7. Bạn luôn có thể chăm sóc trẻ bị bệnh thủy đậu tại nhà
Nếu con bạn bị thủy đậu, đừng ngạc nhiên khi bác sĩ nhi khoa không yêu cầu bạn đưa trẻ vào viện ngay. Việc đưa trẻ vào bệnh viện sẽ làm tăng nguy cơ lây lan bệnh tại phòng chờ khám.
Nếu trẻ bị sốt, bạn có thể cho trẻ uống thuốc hạ sốt acetaminophen. CDC khuyến cáo rằng đừng bao giờ cho trẻ uống aspirin. Sử dụng aspirin sẽ liên quan đến hội chứng nghiêm trọng Reye, gây ảnh hưởng đến gan và não. Ibuprofen cũng được khuyến cáo không nên sử dụng vì sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng da nguy hiểm do liên cầu khuẩn.
Khi trẻ bị bệnh, hãy cho trẻ tắm bột yến mạch và thoa kem dưỡng da calamine giúp giảm ngứa. Cắt tỉa móng tay cho trẻ và khuyên trẻ đừng gãi làm trầy xước bóng nước gây nhiễm trùng và để lại sẹo.
Thuốc chống virus là acyclovir có thể làm giảm triệu chứng bệnh nhưng nó chỉ dùng cho những tình huống nhất định (như trẻ bị chàm hoặc hen suyễn) và thường không dành cho trẻ khỏe mạnh bị bệnh thủy đậu không biến chứng.
AAP khuyến cáo bạn nên đưa bé đến bác sĩ nhi khoa khi trẻ sốt cao hơn 39oC, sốt hơn 4 ngày hoặc bất cứ dấu hiệu nào của nhiễm vi khuẩn (ví dụ ban nóng, đau khi sờ, ban có màu rất đỏ hoặc chảy mủ). Một trường hợp khác cần đưa bé đi khám ngay là khi bé bị sốt và ban lan rộng. Bác sĩ sẽ khám cẩn thận hơn để bảo đảm bé thực sự bị thủy đậu và không có biến chứng xảy ra.
8. Khi một người bị thủy đậu, họ có thể không bị lần nữa, nhưng có thể bị một bệnh liên quan đó là giời leo
Sau khi bị thủy đậu, virus varicella zoster có thể vẫn còn trong cơ thể ở dạng bất hoạt. Virus có thể tái hoạt nhiều năm sau đó, gây nên bệnh giời leo. Theo CDC, có khoảng 1 triệu trường hợp giời leo mỗi năm ở Mỹ. Bất cứ ai từng bị thủy đậu đều có thể bị giời leo nhưng nguy cơ tăng theo tuổi tác. Hiện tại đã có vắc xin giời leo và được khuyến cáo dành cho người hơn 60 tuổi.