I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mọi sự vật hiện tượng đều có màu sắc. Màu sắc của sự vật hiện tượng sinh ra từ đâu? Câu hỏi này không ai trả lời được, chỉ biết rằng từ khi con người sinh ra đã thấy mọi sự vật, hiện tượng đều mang một màu sắc riêng biệt phong phú và đa dạng. Nhờ có màu sắc mà con người nhìn nhận cuộc sống, sự vật hiện tương
thêm phong phú và đa dạng. Giả sử mọi sự vật hiện tượng chỉ có một màu duy nhất thì cuộc sống của con người sẽ như thế nào? liệu con người có tồn tại được không? Và nếu tồn tại được thì cuộc sống có còn phong phú đa dang? Nói như thế để khẳng định : “Màu sắc trong tự nhiên rất quan trọng đối với cuộc sống con người”.
Màu sắc quan trọng đối với đời sống con người thì màu sắc lại càng quan trong hơn nữa đối với trẻ nhỏ. Khi mới sinh ra, trẻ chỉ nhận ra màu đen và trắng, nhưng càng lớn trẻ càng nhận ra nhiều màu sắc hơn. Đối với lứa tuổi nhà trẻ 24- 36 tháng, trẻ có thể nhận biết phân biệt được ba màu cơ bản. Đó là màu xanh, đỏ, vàng. Khi bé bắt đầu được học về màu sắc, một thế giới hoàn toàn mới mẻ mở ra trước mắt bé. Một quả táo không chỉ là quả táo mà còn là quả táo xanh, và một trái bóng không chỉ là quả bóng mà còn là quả bóng đen và trắng. Dó là một cuộc hành trình vui nhộn và thú vị với các trò chơi, đồ chơi, đồ ăn và cả sự khám phá.
Khi thực hiện nội dung xếp hình, trẻ tiếp xúc với các đồ vật có các dạng hình học cơ bản như: Vuông, tròn, tam giác, chữ nhật và các biểu tượng màu sắc khác nhau như xanh, đỏ, vàng, trắng, đen.... Với nội dung này trẻ phải thực hiện nhiệm vụ nhận biết, gọi tên, phân biệt màu sắc, hình dạng. Khi đó trẻ sẽ
được hình thành các biểu tượng về hình dạng và màu sắc qua dấu hiệu của đồ vật. Ban đầu là những kiến thức, kỹ năng cơ bản, theo thời gian, qua luyện tập, dần dần trẻ tích luỹ được kinh nghiệm và phát triển khả năng nhận thức. Thế giới trong mắt trẻ thơ là một thế giới sinh động, rực rỡ sắc màu và được trẻ thể
hiện những điều trẻ muốn nói qua những “tác phẩm nghệ thuật” mang dấu ấn của riêng mình. Những gì trẻ miêu tả trong tranh vẽ thể hiện trí tưởng tượng vô cùng phong phú, đáng yêu và ngộ nghĩnh. Màu sắc, đường nét mà trẻ vẽ nhiều khi phi lí, trái với thực tế nhưng lại vô cùng có lí khi nghe trẻ lí giải. Ví
dụ: trẻ vẽ những đường ngoằn nghèo sau con gà và bảo đó là con gà đang đi vệ sinh. Chúng ta thường có thói quen dùng màu sắc thực tế để tô màu nhưng với trẻ màu sắc không nhất thiết là màu xanh tô lá cây, màu nâu tô cho mặt đất...
Giúp trẻ nhận biết, phân biệt ba màu xanh, đỏ, vàng không chỉ giúp trẻ nhận biết và phân biệt đúng màu sắc xanh, đỏ, vàng của các đồ dùng đồ chơi. Mà còn để đáp ứng nhu cầu về nhận biết về màu sắc của trẻ.
Việc giúp trẻ nhận biết phân biệt tốt ba màu cơ bản xanh, đỏ, vàng còn là bước đầu giúp trẻ phát triển lĩnh vực nhận thức, là nền tảng vững chắc để sau này trẻ sẽ nhận biết phân biệt được nhiều màu sắc khác ở các độ tuổi tiếp theo của trẻ.
Trong những năm học gần đây, bậc học Mầm non đang tiến hành đổi mới chương trình giáo dục trẻ mầm non. Trong đó, đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một cách chủ động, tích cực, hồn nhiên, vui tươi. Đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy tính sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “ Học mà chơi- chơi mà học”, đáp ứng mục tiêu phát triển trẻ một cách toàn diện.
Tự thấy việc giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi biết nhận biết và phân biệt, ba màu xanh, đỏ, vàng là rất quan trọng và cần thiết. Để khả năng nhận biết của trẻ ngày càng được nâng lên về kiến thức của lĩnh vực phát triển nhận thức cũng như phát triển thẩm mĩ. Và để thế giới trong mắt trẻ càng thêm phong phú và
đa dạng. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi nhận biết phân biệt tôt ba màu cơ bản: màu xanh- màu đỏ- màu vàng”
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
Ở lứa tuổi 24- 36 tháng, trẻ khám phá thế giới xung quanh chủ yếu bằng các giác quan. Khả năng tri giác, đặc biệt là quan sát, và đặt câu hỏi, tiếp nhận kiến thức từ câu trả lời một cách nhanh nhạy là những đặc điểm phản ánh năng lực học hỏi của một đứa trẻ. Trong đó quan sát là yếu tố đầu tiên và có ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình học hỏi, giúp trẻ phát triển chức năng thị giác ở bán cầu não trái. Việc quan sát sẽ giúp trẻ ghi nhận thông tin và có sự phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, cụ thể hóa. Tư duy của trẻ nhờ thế sẽ được kích thích để phát triển, trẻ sẽ nhạy bén, có sự cảm nhận tinh tế với thế giới xung quanh hơn. Năng lực học hỏi cũng nhờ đó sẽ có sự tác động tích cực để không ngừng nâng cao. Màu sắc là một trong những yếu tố thu hút sự chú ý đầu tiên của trẻ. Do đó, việc giúp trẻ sớm làm quen với
màu sắc là một cách hiệu quả để tăng khả năng quan sát ở trẻ. Màu sắc giúp tăng khả năng nhận biết thế giới xung quanh. Nhờ đó, trẻ tích lũy dần, có sự hiểu biết về các sự vật, hiện tượng gần gũi bằng cử chỉ, lời nói. Trẻ có thể chỉ nói tên hoặc lấy hoặc cất đúng đồ chơi màu đỏ/ màu vàng/ màu xanh theo yêu cầu.
Trong giai đoạn giáo dục hiện nay thì lĩnh vực phát triển nhận thức cũng như thẩm mĩ là hai trong năm yếu tố quan trọng, cần thiết được đưa vào giáo dục nói chung và giáo dục cho trẻ mầm non nói riêng.
Ở lứa tuổi 24- 36 tháng nội dung phát triển thẩm mĩ chưa đưa vào giáo dục trẻ. Trong khi đó trẻ 24-36 tháng tuổi lại rất thích những đồ vật mang màu sắc xanh, đỏ, vàng. Trẻ thường chọn những đồ dùng, đồ chơi mang những màu sắc đặc trưng đó để chơi nhưng trẻ lại không biết được đồ vật đó là màu gì chỉ biết rằng nó đẹp nên chọn để chơi. Như vậy tuy chưa đi vào dạy lĩnh vực phát triển thẩm mĩ cho trẻ 24- 36 tháng nhưng qua việc trẻ biết chọn đồ chơi có màu sắc nổi bật (Xanh, đỏ, vàng) có nghĩa là trẻ đã biết nhận ra “cái đẹp”. Những bài học về màu sắc không chỉ tăng khả năng nhận biết thế giới xung quanh mà còn giúp bước đầu hình thành biểu tượng về “cái đẹp”. Đây chính là nền tảng để dạy trẻ phát triển lĩnh vực thẩm mĩ ở độ tuổi tiếp theo
2. Cơ sở thực tiễn:
- Chất lượng học sinh đầu năm chưa đồng đều.
- Việc lựa chọn, tổ chức các hoạt động phù hợp nhằm giúp trẻ nhận biết phân biệt ba màu cơ bản cho còn chưa phong phú, đa dạng
- Môi trường lớp học cũng như đồ dùng đồ chơi tự tạo giúp trẻ nhận biết phân biệt ba màu cơ bản còn đơn giản, ít, chưa tạo được hung thú cho trẻ.
- Tài liệu hướng dẫn các trò chơi phát triển nhận thức cũng như giúp trẻ nhận biết phân biệt ba màu cơ bản còn ít. Việc lựa chọn, sắp xếp nội dung các trò chơi chưa thật phù hợp với chủ đề, sự kiện của hoạt động.
- Phụ huynh học sinh chủ yếu làm công việc kinh doanh, công nhân, nên ít có thời gian cùng trẻ nhận biêt phân biệt ba màu cơ bản. Phụ huynh chưa hiểu hết tầm quan trọng và sự cần thiết của việc giúp trẻ nhận biết phân biệt ba màu cơ bản: phụ huynh không đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về màu sắc của trẻ cứ nghĩ lớn rồi biết hết, có khi phụ huynh áp đặt màu sắc cho trẻ trên các hoạt động.
3. Giải quyết vấn đề:
3.1. Biện pháp 1: Khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học
- Do đặc điểm phát triển tâm sinh lý, thể lực của trẻ không giống nhau, khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều, có trẻ tiếp thu nhanh, có trẻ tiếp thu chậm, có trẻ bạo dạn, có trẻ nhút nhát, thiếu tự tin nên việc nhận biết phân biệt ba màu cơ bản cũng không đồng đều.
- Muốn giúp trẻ nhận biết phân biệt ba màu cơ bản có hiệu quả thì giáo viên cần phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, đặc điểm nhận thức, khả năng và hình thức tiếp thu cũng như các kỹ năng của từng trẻ từ đó lên kế hoạch cụ thể, kịp thời bồi dưỡng, giáo dục trẻ. Trong một năm học, giáo viên phải kết hợp các hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động phong phú đa dạng. Từ đó, cô giáo cùng kết hợp với phụ huynh có biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp giúp trẻ nhận biết phân biệt ba màu cơ bản. Khảo sát chất lượng trẻ đầu năm giúp tôi nắm chắc về khả năng của từng trẻ tại lớp, từ đó có kế hoạch giúp trẻ nhận biết phân biệt màu linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với trẻ
3.2. Biện pháp 2: Lựa chọn, tổ chức các hoạt động phù hợp nhằm phát triển thể chất cho trẻ:
- Xây dựng kế hoạch năm, kế hoạch chủ đề, kế hoạch tuần, kế hoạch ngày, kế hoạch hoạt động đầy đủ, theo chương trình.
* Đón – trả trẻ:
- Giờ đón trả trẻ tôi, giờ chơi tự do tôi trò chuyện gần gũi trẻ để nắm bắt được tâm lý của từng trẻ, khi trò chuyện tôi lấy một vài đồ chơi có màu xanh, đỏ, vàng để rèn cho trẻ nhận biết. Đây là thời điểm phù hợp để trò chuyện với trẻ đặc biệt là những trẻ có kỹ năng nhận biết phân biệt màu chưa thành thạo vì lúc này số trẻ trong lớp đã ít đi, không đòi hỏi giáo viên phải tập trung nhiều đến trẻ khác.
+ Ví dụ: Vào buổi sáng tôi trò chuyện về chủ điểm những bông hoa đẹp thì tôi chú ý đến màu sắc của các loại hoa để cho trẻ nhận biết. Con biết những loại hoa gì? Hoa có màu gì?....
Vào buổi chiều trước khi trẻ ra về tôi hỏi trẻ về những việc trẻ làm trong ngày: “con chơi trò chơi gì?” “nặn được cái gì?” “xếp được cái gì?” “có màu gì?”...
*Trong hoạt động chơi tập có chủ đích:
Trong các hoạt động chơi tập có chủ đích, ngoài việc dạy trẻ nhận biết phân biệt ba màu xanh, đỏ, vàng trong hoạt động nhận biết- nhận biết phân biệt màu xanh, đỏ, vàng, tôi còn lồng ghép tích hợp nội dung nhận biết phân biệt ba màu xanh , đỏ, vàng, vào các hoạt động khác bằng cách chuẩn bị đồ dùng trực quan liên quan đến các tiết học: tranh ảnh, đồ vật, đồ dùng, đồ chơi rất đẹp mắt và chủ yếu những đồ dùng đó đều có ba màu cơ bản: Xanh, đỏ, vàng để gây sự chú ý, thích thú cho trẻ. Trẻ càng chú ý đến hình ảnh trực quan thì việc dạy trẻ nhận biết phân biệt ba màu xanh, đỏ, vàng càng dễ dàng và hiệu quả hơn.
* Nhận biết tập nói:
- Theo từng chủ đề sự kiện, tôi lựa chọn, sử dụng các đồ chơi, tranh ảnh, vật thật có màu xanh, hoặc màu đỏ hoặc màu vàng để trẻ gọi tên đồ vật kèm theo màu sắc. Khi cho trẻ chơi trò chơi để luyện cho trẻ phát âm tôi chọn trò chơi có đồ dùng trực quan mang màu sắc xanh, đỏ, vàng cho trẻ được cầm, được chọn theo yêu cầu của cô để trẻ phát âm.Từ đó trẻ sẽ hứng thú học hơn và việc lồng ghép, tích hợp nhận biết màu sắc sẽ thuận tiện hơn và trẻ sẽ khắc sâu tư duy ghi nhớ hơn.
+ Ví dụ: NBTN “Các đồ dùng trong gia đình: Bát, thìa, đĩa” tôi chọn cái bát có màu đỏ, cái đĩa có màu xanh cho trẻ quan sát và tập nói. Khi cho trẻ quan sát tập nói tôi không quên hỏi trẻ câu “Cái bát (Đĩa) có màu gì?” và cho trrẻ phát âm nhiều lần “ Cái bát màu đỏ” “Cái đĩa màu xanh” , từ đó giúp trẻ nhận biết ra màu xanh, đỏ.
Trò chơi: Chọn đồ dùng Theo yêu cầu của cô: Tôi yêu cầu trẻ lây cái bát màu đỏ, trẻ lấy đúng bát màu đỏ và phát âm nhiều lần “ Cái bát màu đỏ”.
* Nhận biết phân biệt:
- Tôi sử dụng các đồ dùng, đồ chơi có màu sắc khác nhau, các dạng kích thước to nhỏ khác nhau, để giúp trẻ dễ nhận biết, phân biệt và gây sự tập trung chú ý của trẻ. Lồng ghép đan xen các trò chơi tránh sự nhàm chán thờ ơ với đồ vật.
+ Ví dụ: Đề tài: nhận biết phân biệt: To- nhỏ
Cô đưa con voi to- con voi nhỏ ra và hỏi trẻ:
- Voi anh đứng phía trước, voi em đứng phía sau
+ Các con có nhìn thấy voi em không? Vì sao?
- Voi anh đứng phía sau, voi em đứng phía trước
+ Các con có nhìn thấy voi anh không? Vì sao?
- Cho trẻ nhắc lại: voi anh to- voi em nhỏ.
Cô đưa quả bóng to- quả bóng nhỏ ra, chỉ vào từng quả và hỏi trẻ:
+ Quả bóng này màu gì?
+ Quả bóng nào to? Quả bóng nào nhỏ?
- Cho trẻ nói: Quả bóng to- Quả bóng nhỏ.
- Cô tổ chức cho trẻ chơi trò chơi: Thi xem ai nhanh
+ Khi cô nói “Quả bóng to” thì các con giơ quả bóng to lên thật nhanh, xem ai giơ nhanh và đúng giống cô. Khi cô nói “Quả bóng nhỏ” thì các con chọn nhanh quả bóng nhỏ giơ lên và nói thật to “Quả bóng nhỏ”.
+ Lần 2: Khi cô nói “Quả bóng màu đỏ” thì các con chọn đúng quả bóng màu đỏ giơ lên và nói to “ Quả bóng to”. Khi cô nói “Quả bóng màu vàng” thì các con chọn đúng quả bóng màu vàng giơ lên và nói to “Quả bóng nhỏ”
Cô cho trẻ tặng bóng cho anh em nhà voi: Quả bóng to tặng cho voi anh to, quả bóng nhỏ tặng cho voi em nhỏ.
+ Bóng to các con tặng ai?Quả bóng nhỏ các con tặng ai?
( Cô bao quát trẻ tặng bóng cho voi)
- Ví dụ: Đề tài: Dạy trẻ nhận biết phân biệt màu vàng- màu đỏ:
Cô đưa hoa hồng cho trẻ quan sát, cô ôn màu đỏ:
+ Đây là hoa gì?
+ Hoa này có màu gì?
- Cô cho trẻ gọi tên màu đỏ.
- Cô cho trẻ lấy hoa màu đỏ giống cô từ trong rổ.
Cô đưa hoa cúc cho trẻ xem, ôn màu vàng:
+ Bông hoa này có màu gì đây?
+ Cô cho trẻ gọi tên màu vàng.
- Cô cho trẻ lấy hoa màu giống cô từ trong rổ.
Cô cho trẻ chơi: Thi xem ai nhanh
Cô cho trẻ chọn bông hoa có màu theo yêu cầu của cô giơ lên và nói to “ Bông hoa màu xanh( màu đỏ)”.
Cô cho trẻ chơi : Bé trổ tài
- Cô cho trẻ dán hoa màu vàng vào thiếp màu vàng, dán hoa màu đỏ vào thiếp màu đỏ. (Cô bao quát trẻ, hướng dẫn trẻ thực hiên).
+ Bông hoa này màu gì? Con dán vào thiếp có màu gì?
- Cô cho trẻ mang thiếp đặt tặng búp bê. Thiếp màu đỏ tặng cho búp bê mặc váy màu đỏ, thiếp màu vàng tặng cho búp bê mặc váy màu vàng. (Cô bao quát trẻ, hướng dẫn trẻ thực
hiên).
+ Thiếp này màu gì? Con tặng thiếp này cho bạn búp bê mặc váy màu gì?
*Văn học:
- Tôi gây hứng thú cho trẻ bằng nhiều thủ thuật khác nhau: dùng tranh ảnh, vật thật có màu sắc xanh, đỏ, vàng, câu đố, bắt chước tiếng kêu của con vật, ... để lôi cuốn trẻ vào giờ học say mê tích cực.
- Tôi sử dụng sa bàn, đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn với ba màu cơ bản để trẻ nhớ nội dung câu chuyện, bài thơ hơn.
+ Ví dụ: Dạy thơ: Hoa đào- hoa mai,
a. Đọc thơ cho trẻ nghe:
- Cô đọc lần 1 diễn cảm, kết hợp sử dụng những cành mai màu vàng, cành đào màu đỏ, cử chỉ, điệu bộ.
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì?
+ Hoa đào có màu gì? Hoa mai có màu gì?
- Cô đọc lần 2 với tranh:
Cô giảng giải nội dung bài thơ.
Đàm thoại trích dẫn:
+ Cô đọc bài thơ gì?
+ Hoa đào ưa thời tiết thế nào?
+ Hoa mai thì thích thời tiết ra sao?
+ Hoa đào có màu gì? Hoa mai có màu gì?
+ Hoa đào hoa mai đua nhau làm gì?
- Cô đọc lần 3, khuyến khích trẻ đọc cùng cô.
b. Trẻ đọc thơ:
- Cô cho cả lớp đọc nhiều lần.
- Cô mời tổ, nhóm, cá nhân trẻ đọc thơ. Cô cho trẻ cầm
cành hoa đào hoặc hoa mai để đọc thơ. Cô hỏi trẻ:
+ Con đọc bài thơ gì? Con cầm hoa gì? Hoa đào có màu
gì? Hoa mai có màu gì?
* Hoạt động tạo hình:
- Bên cạnh việc rèn một số kỹ năng cơ bản sử dụng đất: lăn dọc, xoay tròn, ấn dẹt…;kỹ năng xé: Xé dải dài, xé vụn, xé theo vết chấm lỗ…; kỹ năng dán: chấm hồ vào vết chấm tròn và đặt hình vào vết chấm hồ, đặt hình khít vào các nét chấm mờ,dán chồng, dán cạnh,.. tôi có lồng ghép nhận biết phân biệt màu vào trong các hoạt động tạo hình.
+ Ví dụ: Đề tài: “ Dán nhụy hoa”.
a. Quan sát mẫu: Cho trẻ quan sát tranh mẫu.
+ Cô có gì đây?
+ Bức tranh này được làm như thế nào?
+ Bông hoa này màu gì? Cành lá màu gì? Nhụy hoa có màu gì?
b. Cô làm mẫu: Cô làm mẫu kết hợp giảng giải cho trẻ cách làm
+ Bông hoa này có cánh hoa và cành lá màu gì?
+ Cô dùng hình tròn màu gì để làm nhụy hoa?
+ Cô đặt hình tròn màu đỏ vào chấm tròn có màu gì?
+ Cô dặt hình tròn màu xanh vào đâu?
Cô củng cố cách ngồi, cách chấm hồ, đặt hình, lau tay vào khăn.
c. Trẻ thực hiện:
Cô bao quát trẻ, hướng dẫn trẻ chọn màu và làm bài
Cô hỏi trẻ:
+ Con đang làm gì?
+ Con làm như thế nào?
+ Con cầm hình tròn màu gì? Con đặt vào đâu?
d. Trưng bày sản phẩm:
Cô cho trẻ đứng vòng tròn, cầm bài của mình để cô và trẻ cùng nhận xét bài của trẻ.
+ Con dán nhụy hoa có những màu gì?
+ Con thích bài của bạn nào? Bạn đã dán đúng nhụy có màu giống hoa lá chưa?
* Hoạt động ngoài trời.
- Giờ chơi ngoài trời ở trường mầm non là khoảng thời gian yêu thích của trẻ nhỏ.Thay vì cứ bắt trẻ phải ngồi ngoan ở trong lớp thì tôi cho trẻ ra sân để hoạt động thường xuyên. Qua hoạt động ngoài trời, trẻ tiếp xúc với thiên nhiên và những sự vật, hiện tượng xẩy ra xung quanh trẻ, tôi tạo điều kiện để trẻ được quan sát, gợi hỏi để trẻ nói lên màu sắc của sự vật, hiện tượng được nghe, nhìn thấy.
+ Ví dụ: Khi dạo chơi đến bên cây hoa hồng, Tôi hỏi trẻ: “cây hoa gì đây?” “đây là cái gì?” “Bông hoa hồng này có màu gì ?” “ Lá có màu gì?”. Trẻ nhận biết màu sắc của cây và màu của bông hoa từ đó khác sâu hơn cho trẻ về kỹ năng nhận biết phân biệt màu xanh, đỏ, vàng.
* Hoạt động ngoài trời :
- Giờ chơi ngoài trời ở trường mầm non là khoảng thời gian yêu thích của trẻ nhỏ.Thay vì cứ bắt trẻ phải ngồi ngoan ở trong lớp thì tôi cho trẻ ra sân để hoạt động thường xuyên. Qua hoạt động ngoài trời, trẻ tiếp xúc với thiên nhiên và những sự vật, hiện tượng xẩy ra xung quanh trẻ, tôi tạo điều kiện để trẻ được quan sát, gợi hỏi để trẻ nói lên màu sắc của sự vật, hiện tượng được nghe, nhìn thấy.
* Chơi tập ở các góc :
- Trẻ được tiếp xúc với đồ chơi, các sự vật hiện tượng, được thể hiện mình qua các “vai chơi”. Vì thế tôi chọn những đồ chơi có màu xanh, đỏ, vàng phù hợp với từng góc để trẻ chơi. Và trong quá trình chơi tôi gợi hỏi trẻ về màu sắc của đồ chơi để trẻ trả lời. Từ đó trẻ lại được khắc sâu khả năng ghi nhớ màu xanh, đỏ, vàng.
* Giờ ăn ngủ:
Giờ ăn, giờ ngủ, tôi vui vẻ ân cần, nhẹ nhàng trò chuyện với trẻ. Tôi giới thiệu thức ăn và hỏi: “hôm nay con được ăn gì?” “Cháo nấu với rau(củ) gì? Rau dền màu gì? Rau cải có màu gì? Củ cà rốt màu gì?”trẻ nhắc lại tên, màu sắc các loại rau. Khi cho trẻ chơi, thấy trẻ cầm bất cứ đồ chơi nào trên tay mà có ba màu trên thì tôi đều hỏi trẻ “ Con đang chơi đồ chơi gì?” đồ chơi có màu gì” để trẻ trả lời.
* Hoạt động chiều:
Vào buổi chiều, tôi thường cho trẻ làm quen với bài mới, cung cấp một số kỹ năng thực hành cuộc sống, hay rèn một số nề nếp, kỹ năng cho trẻ hỏi trẻ. Việc củng cố sự nhận biết phân biệt màu cơ bản cũng được tôi đưa vào trong các hoạt động chiều.Tôi thường hỏi trẻ về những việc trẻ làm trong các hoạt động sáng: “Con chơi trò chơi gì?” “nặn được cái gì?” “xếp được cái gì?”, “có màu gì?”
III. Biện pháp:
Tôi nhận thấy, việc xây dựng môi trường học tập phù hợp và hấp dẫn trẻ là vô cùng cần thiết. Sau khi nhận sự phân công của Ban giám hiệu, ngay từ đầu năm học, tôi đã trang trí lớp theo các chủ đề, sự kiện đã xây dựng và đảm bảo: không gian thực tế của lớp, an toàn, thẩm mỹ, các nhu cầu của trẻ. Tôi sắp xếp các góc chơi hợp lý và tận dụng tối đa diện tích phòng học để bố trí không gian tổ chức các hoạt động học tập và vui chơi của trẻ.Với mỗi chủ đề tôi luôn có sự thay đổi phù hợp, hướng dẫn trẻ tạo các sản phẩm trong hoạt động góc để cùng cô trang trí lớp học.
Đối với các góc chơi của trẻ, tôi đã thiết kế và bố trí linh hoạt đảm bảo góc chơi động xa góc chơi tĩnh. Tôi đặt tên cho các góc chơi gần gũi, dễ hiểu với trẻ : Góc Bé chơi với hình và màu; Góc Bế em; Góc Bé kể chuyện, Góc Bé thích vận động,..Các góc chơi của trẻ được tôi trang trí bằng các hình ảnh gần gũi trẻ rất dễ thương, sinh động và đẹp mắt. Các góc chơi và hình ảnh ở các góc chơi luôn chứa đựng những nội dung học tập cụ thể.
Đồ chơi tại các góc là những đồ chơi phù hợp với khả năng chơi của trẻ, đồ chơi phải thu hút (màu chủ yếu vẫn là ba màu cơ bản) và gây hứng thú cho trẻ khi chơi. Ngoài đồ chơi có sẵn thì tôi cùng các giáo viên trong lớp đã tận dụng những nguyên vật liệu có sẵn như: vỏ hộp sữa chua, hộp đựng cháo, bìa
cát tông, chai nhựa…đã làm ra rất nhiều đồ chơi sáng tạo cho các góc, thu hút đối với trẻ khi tham gia các hoạt động. Môi trường ngoài lớp học các cô giáo trong trường cùng phối hợp bố trí thời gian để thay đổi tạo quang cảnh sự phạm mới mẻ hấp dẫn. Đồ chơi ngoài trời được bố trí sắp xếp tạo khoảng trống của sân trường cho trẻ chơi, tập thể dục