I/Lý do chọn đề tài:
Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó.”
Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người . Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử- xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.
Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Là một cô giáo Mầm Non trực tiếp dạy trẻ 24- 36 tháng tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi.
Đó chính là lí do mà tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng ở trường mầm non Lĩnh Nam” làm sáng kiến kinh nghiệm cho năm học này.
II/. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non Việt Hưng
Hướng dẫn trẻ một số kỹ năng phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non Việt hưng
III/. Đối tượng nghiên cứu:
Đi sâu vào nghiên cứu những hình thức sinh động, hấp dẫn để giúp trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non Lĩnh Nam
* Phạm vi đối tượng khảo sát, thực nghiệm:
Trẻ Nhà trẻ 24-36 tháng tuổi ở trường mầm non việt Hưng
IV/. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: đọc nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát sư phạm.
+ Phương pháp dùng lời.
+ Phương pháp dùng trò chơi.
V/. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu đề tài trong 1 năm học, bắt đầu từ tháng 9/2018 và kết thúc vào tháng 4/2019.
B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ Mầm Non nói riêng thì ngôn ngữ đóng một vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất, đặc biệt đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh, hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà mọi người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó.
Ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh… của các sự vật , hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày.
Đặc biệt đối với trẻ 24- 36 tháng, người lớn cần giúp trẻ phát triển mở rộng các loại vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện với trẻ về những sự vật, hiện tượng, hình ảnh…. mà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hành ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó hình thành ngôn ngữ cho trẻ.
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Thuận lợi:
- Về phía phòng giáo dục: được phòng giáo dục và đào tạo, nhà trường cho đi học lớp bồi dưỡng về chuyên môn ,đặc biệt năm nay ngành giáo dục về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ lứa tuổi mầm non, tham gia các buổi kiến tập ở trường bạn và trường mình để học thêm kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Về Ban giám hiệu:
+ Ban giám hiệu luôn quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất và chuyên môn, bồi dưỡng phương pháp, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non.
+ Ban giám hiệu đã trang bị đầy đủ tài liệu học, học liệu, thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên
+ Lớp học trang bị các thiết bị hiện đại phục vụ cho giảng dạy: Máy vi tính, ti vi, đầu đĩa.
- Về giáo viên:
Hai cô giáo phối hợp nhịp nhàng trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
+ Bản thân là giáo viên yêu nghề mến trẻ, có trách nhiệm cao trong việc thực hiện các nhiệm vụ mà nhà trường giao cho.
+ Giáo viên nhiệt tình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
+ Trẻ đi học đều, đúng giờ nên lớp luôn đạt tỉ lệ chuyên cần cao.
+ Đa số trẻ của lớp nhanh nhẹn, sức khỏe tốt để tham gia vào các hoạt động của lứa tuổi.
+ Giáo viên trong lớp có trình độ đại học. Được sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh
- Về phụ huynh:
+ Một số phụ huynh nhiệt tình chia sẻ với giáo viên ở lớp về tình hình của trẻ ở nhà và luôn quan tâm đến trẻ thường xuyên dành thời gian trao đổi với cô giáo để cùng chăm sóc và giáo dục trẻ.
2. Khó khăn:
- Vì nhiểu trẻ mới bắt đầu đi học nên còn khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp nên còn bỡ ngỡ. Mỗi cháu lại có những sở thích và cá tính khác nhau.
- Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi sắp xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
- 60% trẻ phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ x - s, dấu ngã - dấu sắc, dấu hỏi – dấu nặng.
3. Khảo sát thực trạng
Khảo sát đầu năm
|
Phân loại khả năng
|
Tốt
|
Khá
|
TB
|
Yếu
|
Sl
|
%
|
Sl
|
%
|
Sl
|
%
|
Sl
|
%
|
Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ
|
5
|
19,2
|
8
|
30,8
|
10
|
38,4
|
3
|
11,6
|
Vốn từ
|
5
|
19,2
|
6
|
23,1
|
9
|
34,6
|
6
|
23,1
|
Khả năng nói đúng ngữ pháp
|
4
|
15,4
|
7
|
27
|
10
|
38,4
|
5
|
19,2
|
Khả năng giao tiếp
|
5
|
19,2
|
8
|
30,8
|
8
|
30,8
|
5
|
19,2
|
Khả năng phát âm chuẩn
|
6
|
23,1
|
5
|
19,2
|
9
|
34,6
|
6
|
23,1
|
III/. Các biện pháp thực hiện
1/ Biện pháp 1: Sưu tầm tài liệu
1. Chương trình chăm sóc trẻ nhà trẻ.
3. Tạp chí Giáo dục - mầm non.
4 .Tâm lý học trẻ em.
5. Hướng dẫn, tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục trong trường mầm non theo chủ đề (trẻ 24- 36 tháng tuổi).
6. Một số tài liệu tham khảo khác như đài, báo, tivi.
2 /Biện pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơ i
2 .1. Giờ đón trẻ:
Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường , tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ.
VD: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ:
+ Gia đình con có những ai?
+ Trong gia đình ai yêu con nhất?
+ Mẹ yêu con như thế nào?
+ Buổi sáng ai đưa con đến lớp?
+ Bố con đưa đi bằng phương tiện gì?
- Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn.
- Ngoài ra trong giờ đón trẻ , trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà , bố , mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép , biết vâng lời.
2.2. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc
Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất , bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ.Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau.
VD1 : Trò chơi trong góc “bé chơi với búp bê” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày.
+ Con đã cho búp bê ăn chưa? ( Chưa ạ)
+ Khi ăn con nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé(Vâng ạ)
+ Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé!
+ Bột vẫn còn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã !(Giả vờ thổi cho nguội)
+ Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi mẹ cho búp bê đi chơi nhé!! (Âu yếm em búp bê)
- Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương , gắn bó của con người
VD2: Trong góc “ Hoạt động với đồ vật” trẻ chơi bằng đồ dùng tự tạo đó chính là những bông hoa đã đục sẵn lỗ, tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua những lỗ đó và tôi sẽ hỏi trẻ:
+ Linh ơi, con đang xâu gì vậy? (Xâu vòng ạ)
+ Con xâu hình bằng gì đấy?(Xâu bằng dây ạ)
+ My ơi, vòng tay này đã đeo được chưa? (Chưa ạ)
+ Muốn đeo được phải làm thế nào? (Phải buộc lại ạ)
+ Khi xâu xong con để sản phẩm của mình nhẹ nhàng vào khay nhé!(Vâng)
VD3: Ở góc “ Tạo hình” bằng miếng xốp thừa tôi đã tận dụng cắt thành hình những cái lá để cho trẻ dán lên cành cây tự tạo. Trẻ sẽ được dán những chiếc lá đủ màu sắc, kích thước tạo lên những bông hoa đẹp và rực rỡ sắc màu. Tôi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm . Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò chuyện cùng trẻ:
+ Con đang làm gì vậy? (Dán lá cây ạ)
+ Bông hoa có màu gì? (Màu đỏ ạ)
+ Lá hoa của con có màu gì? (Màu xanh ạ)
+ Con dán lá cho bông hoa rồi cắm vào lọ để bày cho đẹp nhé
- Như vậy bằng những đồ chơi tự tạo thông qua hoạt động chơi không những rèn cho trẻ sự khéo léo mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
2.3. Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời
- Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như : Đu quay, cầu trượt , bập bênh….
Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở quanh trường, lớp và hỏi trẻ:
+ Bông hoa này có màu gì? ( Trẻ trả lời màu đỏ)
+ Cây hoa đồng tiền có lá màu gì? ( Màu xanh ạ)
+ Cây hoa này dùng để làm gì?
* Giáo dục:
+ Các con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! ( Vâng ạ)
- Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc , rõ ràng hơn.
- Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.
3/ Bi ện pháp 3: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các hoạt động khác
3.1 Thông qua hoạt động nhận biết:
Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
VD1: Trong bài nhận biết ” Quả Cam” cô muốn cung cấp cho trẻ biết trong quả cam có những gì thì cô phải chuẩn bị một quả cam chưa bổ và 1 quả cam đã bổ để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn, ngửi…..nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích.
- Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi:
+ Đây là quả gì? ( Quả cam ạ)
+ Các con nhìn xem quả cam có vỏ màu gì? ( Màu vàng ạ)
+ Các con ơi, trong quả cam có gì nhỉ? (Có hạt cam ạ)
+ Đố các bạn biết cam chín có vị gì? ( Ngọt ạ)
- Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc , thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ.
VD2 :Hoạt động nhận biết “ Ô tô”
Khi vào bài tôi đặt câu đố: “ Xe gì bốn bánh
Chạy ở trên đường
Còi kêu bim bim
Chở hàng chở khách” ( Ô tô)
- Trẻ trả lời đó là ô tô tôi đưa chiếc ô tô cho trẻ xem và hỏi:
+ Xe gì đây? ( Ô tô ạ )
+ Ô tô có màu gì? ( Màu đỏ ạ )
+ Ô tô đi ở đâu? ( Ô tô đi ở trên đường ạ)
+ Ô tô dùng để làm gì? ( Dùng để đi ạ)
+ Còi ô tô kêu như thế nào? ( bíp bíp..)
+ Đây là cái gì? ( Cô hỏi từng bộ phận của ô tô và yêu cầu trẻ trả lời)
- Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ thực tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.
VD 3: Trong bài nhận biết ” Con Vịt” tôi đã sử dụng con Vịt thật, cô muốn cung cấp cho trẻ biết con vịt có những bộ phận gì, tác dụng của những bộ phận đó, tiếng kêu của con vịt con như thế nào, Vịt sống và hoạt động ở môi trường nào, trẻ được quan sát trực tiếp…..nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích.
- Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi:
+ Đây là con gì? ( “Con Vịt ạ”)
+ Các con nhìn xem con Vịt có nhưng bộ phận gì? ( Đầu vịt, mình vịt, đuôi vịt ạ)
+ Các con ơi, lông con vịt có màu gì, có mịn không? (màu vàng, rất mịn mềm mượt ạ)
+ Vịt hoạt động ở dưới nước sẽ như thế nào?
+ Vịt kêu như thế nào ( Vít vít)
3.2. Thông qua hoạt động làm quen văn học
Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo:
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
+ Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
VD1: Trẻ nghe câu truyện “ Đôi bạn nhỏ”. Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó là từ “Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “Bới đất”: Các con ạ , bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình , khi kiếm được thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy.
Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học:
+ Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu?( Đi kiếm ăn ạ)
+ Vịt kiếm ăn ở đâu? ( Dưới ao )
+ Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? ( Trên bãi cỏ)
+ Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? ( Bới đất tìm giun )
+ Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con?
(Con Cáo)
+ Vịt con đã cứu Gà con như thế nào?(Gà nhảy phốc lên lưng Vịt, Vịt bơi ra xa).
+ Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao?( Thương yêu nhau)
+ Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? ( Giúp đỡ bạn ạ).
- Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn.
VD2: Qua bài thơ “ Cây bắp cải ” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “ Sắp vòng quanh”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được nhìn, sờ, ngửi…..và qua vật thật tôi sẽ giải thích cho trẻ từ “ sắp vòng quanh”.
- Tôi giải thích cho trẻ : Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng tròn xếp chồng lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở ngoài . Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ)
+ Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào?(Xanh man mát)
+ Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? ( Sắp vòng quanh ạ)
+ Búp cải non thì nằm ở đâu? ( Nằm ở giữa ạ)
- Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
- Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
VD3: Trong Truyện “ Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời.
+ Trẻ hay nói ô tô - ô chô.
+ Trẻ nói Thỏ ngoan - Thỏ ngan
+ Bác Gấu - Bác ấu
+ Con Cáo - Con áo
…………. ………..
- Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo.
- Thể hiện sắc thái , ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên , khích lệ trẻ kịp thời.
- Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “ Thỏ ngoan”
+ Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn.
+ Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu.
+ Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở.
- Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức .
3.3. Thông qua hoạt động âm nhạc:
- Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn thôi thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có hiệu quả với trẻ.
- Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật
( Trống, lắc, phách tre, mõ, xắc xô…… và nhiều chất liệu khác ) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc.
- Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát.
VD: Vận động theo nhạc bài hát “ Con voi”
+ Câu đầu tiên : Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước.
( Trẻ đưa tay ra phía trước giả làm vòi con voi)
+ Câu thứ hai : Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau.
( Hai tay chống hông , hai chân nhấc lên nhấc xuống)
+ Câu cuối : Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Câu chuyên con voi.
( Một tay chống hông, một tay đưa ra đằng sau vờ làm đuôi con voi)
3 .4. Thông qua hoạt động phát triển thể chất
- Trong góc vận động của lớp tôi đã sử dụng những thùng bìa để làm thành tàu hoả cho trẻ chơi. Mỗi thùng làm thành một toa tàu. Trong khi chơi trẻ có thể vừa chơi vừa kết hợp âm nhạc hát :” Đoàn tàu tí hon”, “ Tàu vào ga”…..vận dụng vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ phân biệt màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp ngôn ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn:
+ Vòng này có màu gì hả con? ( Màu đỏ ạ)
+ Thế còn vòng này có màu gì đây? ( Màu xanh ạ)
+ Vòng để làm gì con có biết không? ( để học , để chơi trò chơi ạ)
+ Con sẽ chơi gì với vòng ? ( Con lái ô tô ạ)
4 / Bi ện pháp 4:. Giáo dục ngôn ngữ thông qua các trò chơi
- Đối với trẻ nhà trẻ , được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụng” số vốn từ ”đó một cách thành thạo.
- Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái
- Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo , đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ , từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú.
a. Trò chơi 1: “Cái gì? Dùng để làm gì?”
- Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng quen thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển :
* Chuẩn bị:
+ Đồ dùng để ăn uống ( Bát , thìa, cốc , ca…)
+ Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ…)
+ Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau.
* Tiến hành:
- Tôi cho trẻ ngồi chiếu xung quanh cô. Cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ phải nói nhanh đồ dùng đó dùng để làm gì?
- Cô nói:
+ Cái bát dùng để làm gì? ( Cái bát đựng cơm)
+ Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước)
+ Cái mũ để làm gì? ( Cái mũ để đội)
+ Cái áo để làm gì? ( Cái áo để mặc)
………………….. ………………
- Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư duy của trẻ. Tôi phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ gọi tên đồ dùng và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3 yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ dùng.
b. Trò chơi 2: “Con muỗi”
* Tiến hành
- Cô đứng phía trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô.
- Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác:
+ Có con muỗi vo ve, vo ve ( Trẻ giơ ngón tay trỏ ra trước mặt vẫy qua vẫy lại theo nhịp đọc)
+ Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay đi xa. ( Lấy ngón tay trỏ vào cánh tay đối diện , chỉ xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang).
+ úi chà! úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp. Rửa tay. ( Nhún vai 2 lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một cái rồi chỉ vào chóp mũi. Sau đó xoa 2 tay vào nhau vờ rửa tay)
- Tuỳ theo sự hứng thú của trẻ mà cho trẻ chơi 3- 4 lần. Khi trẻ chơi tôi nhận thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ bập bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình thành trọn vẹn hơn .
c. Trò chơi 3: “Trò chuyện về các phương tiện giao thông quen thuộc ”.
- Qua trò chơi này trẻ sẽ kể được một số phương tiện giao thông quen thuộc như : ô tô, xe đạp , xe máy, tàu hoả….
* Chuẩn bị:
+ Mô hình các phương tiện giao thông: ô tô , xe máy, xe đạp….
+ Tranh , ảnh các loại phương tiện giao thông
+ Đàn, đài có thu âm thanh tiếng kêu của các phương tiện giao thông cho trẻ đoán
* Tiến hành:
Trong trò chơi này tuỳ thuộc vào thời gian rảnh rỗi tôi có thể cho trẻ chơi. Có thể là giờ đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi buổi chiều…tôi có thể đàm thoại với trẻ về các loại Phương tiện giao thông mà trẻ biết như :
+ Hôm nay, ai đưa con đến trường?
+ Mẹ con đưa đến trường bằng phương tiện gì?
+ Cô nào đón con vào lớp?
+ Hôm qua chủ nhật, bố mẹ con có đưa con đi đâu không?
+ Con đi với ai?
+ Con đi bằng phương tiện gì?
+ Khi đi đường con nhìn thấy gì ?
+ Bạn nào đã được đi ô tô rồi ?
+ Ô tô kêu như thế nào ?
+ Khi ngồi trên ô tô phải như thế nào để đảm bảo an toàn giao thông?
- Sau khi đặt những câu hỏi như vậy tôi khuyến khích trẻ kể tên những loại phương tiện giao thông khác mà trẻ biết.
- Tiếp tục cho trẻ quan sát mô hình phương tiện giao thông và cho trẻ nghe âm thanh của phương tiện giao thông yêu cầu trẻ đoán đó là phương tiện giao thông nào.
d. Trò chơi 4: “Trò chuyện cùng cô”
- Qua trò chơi này trẻ được phát âm nhiều, tiếp xúc nhiều với ngôn ngữ mới qua giao tiếp với cô.
* Tiến hành:
Trong ngày tuỳ từng thời điểm mà cô dành thời gian vỗ về ôm ấp trẻ, nói chuyện với trẻ:
- Khi cho ăn :
+ Bạn Bảo An ăn giỏi nào, con ăn cơm với gì đấy?(Con ăn cơm với thịt ạ)
+ Bạn Nam ăn được mấy bát cơm rồi?
- Khi thay quần áo cho trẻ cô cũng cần nựng trẻ:
+ “ Cô Hiền mặc áo đẹp cho Minh nhé?” ( Vâng ạ)
+ “ áo đẹp này ai mua cho con? “ ( Mẹ con ạ)
+ Con có biết mẹ mua ở đâu không? (ở cửa hàng ạ)
+ Con có thích mặc áo này không? ( Có ạ)
- Khi ngồi chơi cô trò chuyện với trẻ về một chủ đề nào đấy để khơi gợi trẻ được phát âm nhiều:
+ Bạn Chi có bàn tay bé xíu trông rất đáng yêu này!
+ Hàng ngày các con phải làm gì để đôi bàn tay luôn sạch?( Rửa tay ạ)
+ Thế đôi bàn tay để làm gì các con có biết không?(Để múa, để xúc cơm, để tô màu ạ….
5/Bi ện pháp 5: Phối kết hợp với phụ huynh:
Để vốn từ của trẻ phát triển tốt không thể thiếu được đó là sự đóng góp của gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình là rất cần thiết tôi luôn kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trao đổi thống nhất về cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và kế hoạch lịch sinh hoạt dạy học cho từng tháng, từng tuần cho phụ huynh nắm bắt được.
Vì đây là trẻ nhà trẻ, trẻ bắt đầu tập nói tôi trao đổi với phụ huynh về ý nghĩa phát triển vốn từ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hàng ngày phụ huynh phải dành nhiều thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.
Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ rất hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm , sửa ngọng.
Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp.
IV. Kết quả thực hiện
Sau một năm áp dụng các biện pháp trên, tôi thấy các cháu của lớp tôi có những thay đổi rõ rệt và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tổng số trẻ được khảo sát:
1. Về phía trẻ:
Sau khi áp dụng “Một số biệp pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng ở trường mầm non Lĩnh Nam” trong cả năm học tôi thấy có những chuyển biến rõ rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá, các cháu nói năng mạch lạc , rõ ràng được thể hiện như sau:
Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong khi giao tiếp.
Trẻ khi giao tiếp biết nói đủ câu hoàn chỉnh.
Trẻ không còn nói ngọng, nói lắp nữa.
Ngôn ngữ của trẻ đã phong phú hơn và trẻ đã biết vận dụng vốn từ vào cuộc sống hàng ngày.
Bằng một số kinh nghiệm của mình mà tôi đã áp dụng trong việc phát triển ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi nhà trẻ trong năm học vừa qua và kết quả đạt được như sau:
Khảo sát cuối năm
|
Phân loại khả năng
|
Tốt
|
Khá
|
TB
|
Yếu
|
Sl
|
%
|
Sl
|
%
|
Sl
|
%
|
Sl
|
%
|
Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ
|
10
|
38,4
|
12
|
46,2
|
4
|
15,4
|
0
|
0
|
Vốn từ
|
13
|
50
|
10
|
38,4
|
3
|
11,6
|
0
|
0
|
Khả năng nói đúng ngữ pháp
|
9
|
34,6
|
15
|
57,7
|
2
|
7,7
|
0
|
0
|
Khả năng giao tiếp
|
9
|
34,6
|
13
|
50
|
4
|
15,4
|
0
|
0
|
Khả năng phát âm chuẩn
|
11
|
42,2
|
12
|
46,2
|
3
|
11,6
|
0
|
0
|
2. Về phía giáo viên:
- Giáo viên nắm được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, hoàn cảnh, tính cách riêng của từng trẻ để có biện pháp giáo dục phù hợp.
- Giáo viên xây dựng tạo môi trường lớp học thân thiện, cởi mở để trẻ được chia sẻ. Cô giáo linh hoạt, sáng tạo lồng ghép nội dung giáo dục trẻ biết quan tâm, chia sẻ thông qua các hoạt động mọi lúc mọi nơi.
- Giáo viên biết tận dụng các tình huống xảy ra để giáo dục trẻ biết quan tâm, chia sẻ.
- Giáo viên tham gia hội thi giáo viên giỏi cấp quận chuyên đề phát triển ngôn ngữ. Đề tài: Nhận biết “ Con Vịt” được đánh giá tiết xếp loại Tốt.
- Giáo viên là tấm gương sáng cho trẻ noi theo.
- Giáo viên phối hợp với phụ huynh cùng giáo dục nuôi dạy trẻ trở thành những thế hệ tương lai có ích cho xã hội.
3. Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh nhận thức đúng tầm quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng từ đó phối hợp với giáo viên cùng nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
- Các bậc phụ huynh đã có những chuyển biến rõ rệt về giao tiếp, ứng xử, phong cách và quan tâm ngày càng nhiều đến con em mình, phấn khởi khi thấy con mình ngày một ngoan hơn, biết vâng lời và biết chia sẻ công việc cùng ông bà, bố mẹ như: Khi đi học về các cháu đều biết chào ông bà, bố mẹ, cháu ra đường nhìn thấy người lớn biết chào hỏi lễ phép không cần bố mẹ nhắc nhở.
- Các bé đều rất vui vẻ tự tin khi đến lớp, thân thiết nhau hơn, không còn hiện tượng tranh giành đồ chơi hay đánh bạn nữa, không những thế các bé còn biết quan tâm chia sẻ với cô giáo và bạn bè, người thân. Thật sự với các bé ‘‘Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
C/ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
“Phát triển ngôn ngữ” cho trẻ ở trường Mầm Non là vấn đề rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng khả năng ngôn ngữ phát triển rất nhanh.
Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của các con, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước.
2. Đề xuất và kiến nghị
Để góp phần nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động góc cho trẻ, bản thân tôi có một vài ý kiến đề xuất sau:
* Về phía phòng giáo dục:
- Rất mong phòng giáo dục sẽ tổ chức thêm các buổi kiến tập về các chuyên đề đặc biệt là chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non ở các độ tuổi
- Cung cấp thêm sách, tài liệu tham khảo để giáo viên được học hỏi nâng cao trình độ.
* Về phía nhà trường:
- Cần phải bồi dưỡng chuyên môn - nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên nhà trường theo chương trình đổi mới của chương trình giáo dục mầm non hiện nay.
- Cần thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy của việc tổ chức các hoạt động đi sâu vào chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nói chung, trẻ nhà trẻ lứa tuổi 24-36 tháng nói riêng.
- Nhà trường cần có sự trang bị đầy đủ, phong phú về các loại đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị dạy học, đảm bảo cho các hoạt động của trẻ và của cô.
* Về phía giáo viên:
- Không ngừng nâng cao, hoàn thiện về trình độ, chuyên môn để thực hiện tốt chương trình đổi mới trong giáo dục.
- Cần chuẩn bị môi trường giáo dục, cung cấp các phương tiện, học liệu, đặc biệt quan tâm chú ý tới nhiều hình thức sáng tạo, theo hướng mở cho trẻ hoạt động.