PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em là tương lai của đất nước, của dân tộc. Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác chăm sóc giáo dục trẻ em.
Bác Hồ kính yêu đã nói:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ biết học hành là ngoan
Đúng như vậy trẻ em như một cây non. Cây non được sự chăm sóc tận tình của người lớn thì cây sẽ lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này trẻ thành người tốt. Chính vì vậy ngành học mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc - giáo dục trẻ, đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung.
Muốn thực hiện được nhiệm vụ to lớn này thì gia đình là sợi dây tình yêu, chăm sóc và kích thích đầu tiên của trẻ, cha mẹ là những người thầy đầu tiên và quan trọng nhất. Mỗi nhà giáo dục, mỗi một cô giáo, người mẹ thứ hai của trẻ, thì phải làm sao hình thành cho các cháu bước đầu có một đức tính tốt để sau này trẻ trở thành người công dân tốt.
Là một giáo viên mầm non được phân công phụ trách trẻ ở độ tuổi 24 - 36 tháng, ở tuổi này trẻ còn rất bé nhưng đặc điểm sinh lý trẻ phát triển rất mạnh, vì vậy trẻ dễ bị tổn thương về tâm lý, tôi thấy việc giáo dục đưa các cháu vào nề nếp để tham gia mọi hoạt động trong ngày của trẻ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong suốt quá trình của các cháu. Vậy làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp thói quen ngay từ những ngày đầu, những ngày mà trẻ không muốn rời xa mẹ để đến với cô giáo và các bạn.
Theo tôi nghĩ đây không phải là vấn đề trăn trở của riêng tôi mà là của tất cả các đồng nghiệp nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng đó tôi đã suy nghĩ tìm hiểu “
Một số kinh nghiệm rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 24 -36 tháng’’
2. Mục đích nghiên cứu
Trªn cơ sở nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng tại lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi tôi tìm ra một số biện pháp và ®ưa ra một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng việc giáo dục rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi.
4. Đối tượng khảo sát- thực nghiệm
Trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi của lớp D1.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau :
3.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc, nghiên cứu và hệ thống hoá một số tài liệu làm cơ sở lý luận cho đề tài.
3.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
3.2.1 Phương pháp quan sát
3.2.2. Phương pháp điều tra
3.2.3. Phương pháp đàm thoại
3.3. Phương pháp thống kê toán học
Và để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, đề tài còn sử dụng một số thủ pháp như: hệ thống, phân loại, phân tích, đối chiếu, so sánh, khái quát, tổng hợp
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
* Thời gian thực hiện đề tài: Tháng 3/2016
* Địa điểm: Lớp nhà trẻ D1.
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Giai đoạn trẻ 24 -36 tháng là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ, các mặt phát triển của trẻ hoà quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Trẻ hoàn toàn còn non nớt, nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt. trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý. Bởi thế muốn rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ, ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được an toàn, được yêu mến và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Quan hệ của cô với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con. Vậy hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ.
Hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non có định hướng, có mục đích để giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ có cảm tình, có hứng thú. Vì thế nghệ thuật chủ yếu của cô thể hiện ở chỗ biết hoà nhập vào thế giới trẻ, biết quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ, như thế trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô một cách thoải mái, vui vẻ. Từ đó giúp trẻ những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực, kiến thức đồng thời hình thành và phát triển nhân cách tốt cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng và tự tin hơn. Muốn thực hiện những mục tiêu trên thì vấn đề rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ mầm non phải được chú trọng thường xuyên liên tục và không ngừng được đổi mới. Đặc biệt là đội ngũ giáo viên phải thường
xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn thường xuyên được tiếp thu đầy đủ các chuyên đề, tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để thực hiện việc chăm sóc - giáo dục trẻ, đặc biệt là rèn luyện nề nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ đạt kết quả cao.
Về góc độ giáo dục nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày đối với trẻ ở độ tuổi 24 -36 tháng, nếu cứ thực hiện theo phương pháp cũ mà trước kia đã thực hiện thì sẽ không đạt lại hiệu quả cao hơn, tính chủ động tích cực sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, đồng thời kết quả về mặt trí tuệ của trẻ sẽ thấp, trẻ sẽ phát triển một cách thụ động.
Vì vậy chỉ có đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ thì mới tạo ra được môi trường hoạt động tốt và tạo ra những cơ hội tốt cho trẻ phát huy khả năng chủ động, sáng tạo một cách triệt để. Trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng đặc biệt là trẻ 24 -36 tháng tuổi. Nếu cô tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động dưới nhiều hình thức, thông qua mọi hoạt động hàng ngày ở mọi lúc, mọi nơi... thì việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ sẽ được thuần thục hơn, kết quả sẽ đạt cao hơn.
2.Thực trạng
*Thuận lợi
- Tôi được công tác tại một trường của xã vì thế cơ sở vật chất cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ được trang bị khá đầy đủ.
-Tôi chọn lớp nhà trẻ D1. ( 24- 36 tháng tuổi ) để nghiên cứu.
Lớp nhà trẻ D1 gồm 30 cháu (19 nam, 11 nữ) trong đó 2 cháu là con gia đình công nhân, 5 cháu là con gia đình giáo viên, còn lại là con gia đình buôn bán. Nhìn chung các cháu đều có điều kiện phát triển tốt về thể chất và tinh thần, tình trạng sức khoẻ các cháu tương đối tốt.
* Khó khăn
Bảng khảo sát đầu năm trong nề nếp sinh hoạt hàng ngày của trẻ
Nội dung các hoạt động |
Số trẻ |
Tỷ lệ % |
- Trẻ thích và đi học chuyên cần |
2/30 |
3.24 |
- Trẻ tự giác và có thói quen chào hỏi |
3/30 |
5.62 |
- Thói quen cất đồ dùng đồ chơi |
4/30 |
5.57 |
- Có nề nếp biết ăn sạch sẽ, cất bát đúng chỗ quy định |
2/30 |
3.24 |
- Trẻ ngủ nề nếp, biết lấy và cất gối giúp cô |
5/30 |
5.64 |
- Tham gia chơi nhiệt tình nề nếp trong vui chơi |
4/30 |
5.57 |
- Trẻ hứng thú, nề nếp trong học tập |
1/30 |
0 |
- Trẻ có thói quen vệ sinh sạch sẽ |
3/30 |
5.62 |
Ngoài những thuận lợi tôi đã nêu trên trong quá trình thực hiện, bản thân tôi gặp không ít khó khăn nhất định.
- Với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi ở giai đoạn phát triển lời nói đang phát triển do đó khả năng giao tiếp về ngôn ngữ của trẻ gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi cô giáo vừa dỗ dành lại vừa học ngôn ngữ trẻ để hiều nhu cầu trẻ đang muốn là gì?
- Trẻ đang sống trong môi trường gia đình, được ông bà, bố mẹ yêu thương chăm sóc. Khi đến trường là nơi hoàn toàn mới mẻ xa lạ với trẻ, do đó trẻ chưa quen với nề nếp, thói quen của lớp, trẻ khóc nhiều vì vậy mà giáo viên mất nhiều thời gian để dỗ dành trẻ. Hơn thế nữa vì là lớp các cháu nhỏ, cháu đông khó khăn cho việc hoạt động, ít cô đông cháu cho nên việc rèn trẻ vào nề nếp càng trở nên khó khăn hơn và cần mất nhiều thời gian hơn nữa.
- Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi bé việc rèn nề nếp cho trẻ chưa quan trọng nên ở nhà các cháu được nuông chiều thái quá muốn gì được nấy, nhiều phụ huynh cho con nghỉ học bừa bãi khiến việc rèn trẻ lại càng khó khăn hơn; và điều đó khiến trẻ trở nên ì ạch, ỉ lại, lười hoạt động. Khi đến lớp trẻ mang theo thói quen ở nhà nên không có tổ chức kỷ luật, nhiều trẻ đi lại lung tung, đến lớp không chào hỏi ai mặc dù đó được cha mẹ và cô giáo nhắc nhở. Mỗi sáng đến lớp luôn mang theo quà bánh, ngoài việc khiến trẻ ăn uống không theo giờ qui định mà cũng khiến cho lớp học mất vệ sinh vì trẻ xả rác bừa bãi không vào nơi qui định. Đến giờ ăn cũng vậy, bên cạnh nhiều trẻ chưa biết xúc ăn khiến các cô rất vất vả lại có những cháu xúc ăn bừa bãi, đùa nghịch trong giờ ăn làm cho lớp học náo loạn…
Để đi vào việc rèn luyện thói quen nề nếp cho trẻ từ những thuận lợi và khó khăn đã nêu, dựa trên cơ sở thực tế bản thân tôi đã đề ra một số biện pháp:
3. Các giải pháp thực hiện
3. 1. Hãy đến với trẻ bằng tình cảm yêu thương trìu mến của người mẹ
Trẻ ở độ tuổi 24 - 36 tháng trẻ bắt đầu được đi lớp, trẻ bắt đầu rời khỏi bàn tay ấp ủ yêu thương của cha mẹ, ông bà để đến chỗ mà với trẻ tất cả đều lạ lẫm và mới mẻ: Trường mới, cô mới, bạn mới vì thế các cháu mang đến trường, đến lớp một tâm trạng vừa bỡ ngỡ lạ lẫm vừa lưu luyến nhớ gia đình, thậm chí có cháu còn sợ hãi khóc lóc... Vì ở độ tuổi này trẻ còn rất bé, sống nhiều về tình cảm nên rất cần sự âu yếm, nhẹ nhàng của cô nhất là những ngày đầu trẻ mới nhập lớp, cô phải làm sao để trẻ có thể cảm nhận được nguồn hạnh phúc, được an toàn, được quan tâm và được yêu mến có thể được coi là một thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Tình cảm của cô đối với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con, biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí cởi mở, quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Khi trẻ có cảm tình, có hứng thú cô có thể sử dụng nghệ thuật của mình để thu hút lôi cuốn trẻ vào các hoạt động một cách dễ dàng.
Ví dụ: Những ngày đầu khi đón trẻ vào lớp, trẻ còn bỡ ngỡ, sợ hãi và khóc lóc, gào thét, cô có thể đến bên bế trẻ âu yếm rồi trò chuyện dỗ dành, cô đưa trẻ đến gần các bức tranh hỏi trẻ về nội dung bức tranh để trẻ quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ như: Bức tranh này vẽ gì? Con thấy bạn nhỏ trong bức tranh đang làm gì? Con thấy bạn có vui không? Con thấy không bạn được đến lớp được vui chơi múa hát bạn cười xinh thế kia mà…..Thông qua nội dung các bức tranh, với lời dẫn nhẹ nhàng đầy tình cảm cô đã kích thích lòng ham muốn của trẻ được đến lớp, được vui chơi, được múa hát, được có nhiều đồ chơi mới và có nhiều bạn mới. Thông qua các hoạt động trên lớp, bằng tình cảm chân thành cô sẽ chiếm được trái tim của trẻ trong từng bữa ăn, từng giấc ngủ, trẻ sẽ được rèn luyện để có những thói quen tốt, cứ như vậy trẻ sẽ thực sự yêu mến cô giáo,yêu quý các bạn và yêu mến lớp, tình cảm thân mật giữa cô và các bạn ngày càng gắn bó và gần gũi hơn.
3. 2 Hãy để trẻ hoạt động tích cực với nhiều đồ chơi mới sáng tạo đẹp mắt
Giai đoạn 24-36 tháng, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động với đồ vật, trẻ học mà chơi, chơi mà học. Vì vậy muốn đưa chất lượng của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ tốt hơn giáo viên cần không ngừng và tích cực sưu tầm, làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi sao cho đẹp, sáng tạo, hấp dẫn, nhưng phải đảm bảo an toàn, sử dụng hợp lý và phù hợp với nội dung với độ tuổi của trẻ để thu hút trẻ vào mọi hoạt động một cách thoải mái và tự tin hơn. Đồng thời tận dụng các khoảng không gian và vị trí trong và ngoài lớp học để trang trí các đồ chơi tự tạo do cô và trẻ làm được để trẻ nhìn ngắm hoặc trang trí lớp, qua đó khơi gợi niềm vui thích thú của trẻ khi đến lớp. Hãy để trẻ hoạt động một cách tích cực, ngoài việc cung cấp cho trẻ số đồ chơi cần và đủ, cô giáo cần sáng tạo thêm các góc mở để cô và trẻ cùng hòa nhập, cùng suy nghĩ và sáng tạo thêm nhiều đồ chơi mới, kích thích vào các giác quan khiến trẻ chủ động và tự tin hơn khi đến lớp.
Ví dụ: Cháu mới nhập lớp đang còn khóc vì nhớ bố mẹ, ông bà, giáo viên hãy đưa trẻ đến các góc chơi, giới thiệu và trò chuyện với trẻ về đặc điểm và tác dụng các loại đồ dùng, đồ chơi trong lớp. Cô giáo có thể cùng trẻ gấp máy bay, gấp tàu và làm những dây xích nhiều màu sắc, điều này sẽ đem lại niềm vui trẻ được sáng tạo và sử dụng những sản phẩm tự tay bé làm, và sau đó là những bài học quí báu về sự quan tâm chia sẻ, tinh thần hợp tác và biết nghĩ đến người khác.
Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong ngày giúp trẻ hứng thú hơn, tăng phần tích hợp, tạo cho trẻ có giờ hoạt động tự tin và sinh động hơn, đó là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn.
3.3. Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày
Trẻ giai đoạn 24 -36 tháng tuổi với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ phát triển mạnh, trẻ hay tò mò và thích bắt chước, giáo viên phải luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng, sử dụng khen, chê đúng mực. Khen và chê có tác dụng mạnh đến
hành vi vâng lời của trẻ, nhưng không nên khen quá đáng mà chê trách chung chung khiến trẻ mất long tự ái
Ví dụ: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc quần áo, đầu tóc gọn gàng, sạch đẹp, biết chào cô khi đến lớp. Thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi, cũng có thể giúp trẻ có thói quen nề nếp tốt hơn hoặc cô không nên chê trẻ trước tập thể lớp mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ về một số nề nếp chưa tốt hay trong lớp còn một vài cháu hay nhõng nhẽo không nghe lời cô do sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ. Vào ngày cuối tuần cô giáo sẽ tuyên dương trước lớp các bạn ngoan, không khóc nhè, các bạn có ý thức tốt biết giữ gìn vệ sinh thân thể, biết cất đồ chơi vào đúng nơi qui định; đồng thời động viên những trẻ còn khóc chưa hòa nhập với lớp tuần sau cố gắng hơn.Từ sự giúp đỡ của cô giáo mà tính nhõng nhẽo của trẻ mất dần. Do được cô tạo điều kiện giúp đỡ, do được rèn luyện mà trẻ đã thực sự hoà nhập vào nề nếp, khuôn khổ của tập thể lớp một cách thoải mái, dễ dàng và tự tin.
3.4. Giáo viên cần tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng nắm bắt về việc rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi.
Muốn đưa chất lượng về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ đạt hiệu quả cao, xuất phát từ tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm sinh lý của trẻ để đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo những tài liệu có nội dung về đề tài, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, của bản thân, nhận thức đúng đắn, hiểu được tầm quan trọng của vấn đề, nắm vững tình hình cụ thể của lớp, của trẻ. Tích cực tham khảo qua tài liệu, sách báo, internet, tạp chí giáo dục mầm non, cần chịu khó kiên trì và sáng tạo trong từng bài dạy, từng tiết học và sáng tạo trong việc làm nhiều đồ dùng đồ chơi cho trẻ…Xác định rõ những khó khăn và điều kiện thuận lợi của nhà trường, của lớp, của bản thân. Từ đó tìm ra biện pháp thực hiện hữu hiệu nhất.
3.5. Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp
- Ngoài việc thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ là vấn đề trọng tâm, giáo viên cần tiến hành tổ chức để đưa các cháu đi vào nề nếp thói quen ở mọi lúc, mọi nơi. Vì thế mọi hoạt động trong ngày của trẻ cô giáo đều phải nghiên cứu, lập ra chương trình kế hoạch bồi dưỡng đối tượng theo sự phân nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu một cách hợp lý:
+ Tốp trẻ nhút nhát ngồi cạnh tốp trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn.
+ Tốp trẻ khá ngồi cạnh tốp trẻ trung bình.
+ Tốp trẻ hiếu động, cá biệt hay nói chuyện ngồi cạnh tốp trẻ ngoan, ngồi cạnh cô giáo để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn.
Cô động viên khích lệ sự tiến bộ đối với những trẻ hiếu động, cá biệt khi thấy trẻ ngoan hơn. Đặc biệt phải thường xuyên uốn nắn và tập cho trẻ cách đi, đứng, xưng hô, cách trả lời cô khi cần thiết... bằng những hình thức trên giáo viên sẽ dần ổn định đưa trẻ vào nề nếp thói quen trong mọi hoạt động, ở mọi lúc mọi
nơi. Đồng thời làm nảy sinh sự say mê hứng thú trong việc rèn luyện về nề nếp thói quen cho trẻ đạt kết quả cao hơn.
3.6. Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi
Mỗi ngày đến lớp trẻ đều được tham gia với các nội dung hoạt động: giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập, vui chơi, giờ đón, giờ trả... mọi sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào nề nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản. Thực tế các cháu còn rất bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên cô phải luôn nhẹ nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ hoặc thông qua bài hát, bài thơ, câu chuyện... trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen, cô cũng có thể sử dụng để trẻ phần nào liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn và biết vâng lời cô giáo. Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ của cô trẻ được uốn nắn kịp thời thường xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ trong mọi hoạt động mọi lúc, mọi nơi mang lại hiệu quả cao hơn, các cháu ngoan và nề nếp hơn. Trong giờ họat động có chủ đích cô giáo kết hợp giáo dục rèn luyện vệ sinh thân thể, giáo dục ý thức sử dụng đồ dùng đồ chơi…Trong giờ trả trẻ cô có thể kết hợp với phụ huynh nhắc nhở trẻ ăn và ngủ đúng giờ, không ăn quà vặt hay phải đi học đều thì sẽ được thưởng bé ngoan….
Ví dụ:
- Giáo viên có thể rèn luyện cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như: Bé ngoan, Lời chào buổi sáng, Mẹ yêu không nào.
Các bài thơ, câu chuyện: Lời chào, Miệng xinh, Cháu chào ông ạ!
- Qua bài thơ, bài hát rèn cho trẻ thói quen khi chơi xong biết cất dọn đồ chơi và để đúng nơi qui định.
- Để rèn cho trẻ có thói quen tốt và ăn ngủ đúng giờ, giáo viên có thể sử dụng các bài thơ “ Giờ ăn” hay bài thơ : “ Giờ ngủ” và bài hát “ Chúc bé ngủ ngon”
- Rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua các bài thơ “ Khăn nhỏ” và bài thơ: “Rửa tay sạch”.
3.7. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với gia đình về kiến thức khoa học
Ngoài góc trao đổi với phụ huynh hàng tháng cô giáo còn có trách nhiệm trực tiếp trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức:
+ Qua giờ đón trả trẻ.
+ Trong các cuộc họp cha mẹ học sinh.
Với trách nhiệm của một cô giáo mầm non, người mẹ thứ hai của trẻ, cô giáo cần thường xuyên theo dõi và nắm tình hình mọi tính cách của trẻ ở mọi hoạt động trong ngày, tìm nguyên nhân để có biện pháp thích hợp kịp thời uốn nắn trẻ. Đồng thời trao đổi với cha mẹ trẻ để bồi dưỡng thêm cho trẻ khi ở gia đình.
Giúp việc rèn luyện thói quen nề nếp của trẻ theo khoa học và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc - giáo dục trẻ.
Ví dụ: Giáo viên động viên và khuyến khích phụ huynh cùng kết hợp với cô trong việc rèn trẻ giờ ăn, giấc ngủ để trẻ ngủ đúng giờ và ăn đủ bữa, nhắc nhở phụ huynh hãy rèn cho con mình thói quen vệ sinh, thói quen tự phục vụ bản thân hay thói quen giữ gìn vệ sinh chung vứt rác vào đúng nơi qui định. Khi gia đình và nhà trường cùng phối hợp với nhau trong việc rèn trẻ điều đó sẽ khiến cho việc giáo dục đạt hiệu quả cao hơn.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi lựa chọn đề tài tôi đã đưa vào thực tiễn trên trẻ tại lớp mình trực tiếp giảng dạy, qua một năm học tôi kiên trì thực hiện một số hình thức rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ, đến nay trẻ đã thực sự yêu mến cô giáo, các bạn và thích đi học, có nề nếp tham gia trong mọi hoạt động, trẻ có tác phong mạnh dạn và tự tin hơn, cụ thể:
- Trẻ có hành vi đạo đức tốt, không nói tục chửi bậy, biết vâng lời ông bà, cha mẹ, yêu quý con vật, biết yêu thiên nhiên, biết quan tâm đoàn kết với bạn, biết cảm ơn xin lỗi.
- Đặc biệt các cháu về nhà đã biết tự mình làm một số việc tự phục vụ: Tự xúc ăn, tự uống nước, biết gọi người lớn khi có nhu cầu đi vệ sinh, khi chơi xong tự cất đồ chơi… biết đọc thơ, hát bi bô cho ông bà, bố mẹ nghe. Vì vậy các bậc phụ huynh rất vui, càng yên tâm hơn khi gửi con đến lớp. Từ đó phụ huynh quan tâm đến việc học tập của các cháu nhiều hơn.
- Các cháu có nề nếp thói quen tự phục vụ nên tôi thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục một cách dễ dàng.
Tôi có thể khẳng định: Đề tài này có tính khả thi cao và chúng ta có thể áp dụng rộng rãi cho các trẻ cùng lứa tuổi ở các lớp và trường khác, sử dụng đề tài này một cách phù hợp, linh hoạt sẽ mang lại kết quả cao với trẻ 24-36 tháng tuổi.
PHẦN III. KẾT LUẬN
- Kết quả đạt được
Trong năm qua kết hợp giữa lý thuyết với thực hành, tôi đã áp dụng để rèn nề nếp thói quen cho trẻ và thấy được sự tiến bộ vượt bậc của các cháu.
Để minh chứng cho kết quả đạt được của các cháu dễ dàng hơn, dưới đây là kết quả so sánh về việc thực hiện một số hình thức rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ .
Néi dung c¸c ho¹t ®éng |
Số trẻ đầu năm |
Tû lÖ
% |
Số trẻ cuối năm |
Tỷ lệ
% |
- TrÎ thÝch vµ ®i häc chuyªn cÇn |
2/30 |
3.24 |
30/30 |
84.21 |
- TrÎ tù gi¸c vµ cã thãi quen chµo hái |
3/30 |
5.62 |
30/30 |
92.1 |
- Thãi quen cÊt ®å dïng ®å ch¬i |
4/30 |
5.57 |
30/30 |
92.1 |
- Cã nÒ nÕp biÕt ¨n s¹ch sÏ, cÊt b¸t ®óng chç quy ®Þnh |
2/30 |
3.24 |
30/30 |
84.21 |
- TrÎ ngñ nÒ nÕp |
5/30 |
5.64 |
30/30 |
94.73 |
- Tham gia ch¬i nhiÖt t×nh nÒ nÕp trong vui ch¬i |
4/30 |
5.57 |
30/30 |
92.1 |
- TrÎ høng thó, nÒ nÕp trong häc tËp |
1/30 |
0 |
30/30 |
78.94 |
- TrÎ cã thãi quen vÖ sinh s¹ch sÏ |
3/30 |
5.62 |
30/30 |
86.84 |
Tuy kÕt qu¶ ®¹t ®îc cha cao. Nhng ®ã lµ ®iÒu rÊt phÊn khëi lµ niÒm ®éng viªn, khÝch lÖ t«i cè g¾ng h¬n n÷a trong n¨m häc tiÕp theo.
2. Bài học kinh nghiệm
Với các hình thức tôi thực hiện trong năm học vừa qua đã thu được kết quả đáng mừng. Từ đó bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm về việc rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hang ngày cho trẻ đạta kết quả tốt.- Cô yêu nghề mến trẻ tận tâm với công việc của mình. Lôn tìm tòi nghiên cứu các phương pháp, hình thức để dạy trẻ phù hợp và đạt kết quả cao
- Rèn cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt quan tâm đến trẻ chậm, trẻ cá biệt, không phân biệt giữa các trẻ.
- Nghiên cứu tham khảo tài liệu, không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ achuyên môn.
- Bản thân giáo viên luôn là tấm gương tốt, mẫu mực trong mọi hoạt động: Lời ăn, tiếng nói, việc làm, luôn tìm tòi học hỏi sáng tạo nhiều loại đồ dùng đồ chơi mới phong phú và sinh động để thu hút trẻ.
- Giáo viên trao đổi thường xuyên với phụ huynh những gì trẻ làm được và chưa làm được để cùng tìm ra nguyên nhân và cách dạy trẻ tốt nhất.
- Giáo viên luôn tạo cơ hội cho trẻ tự làm các việc phù hợp với khả năng của trẻ và có hành vi văn hóa.
3 . Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả của việc rèn luyện nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 24-36 tháng theo hướng tích cực hóa, tôi có một số kiến nghị sau:
* Về phía nhà trường
- Có sự định hướng chỉ đạo giáo viên các lớp nhà trẻ thực hiện tốt việc giáo dục rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ .
- Huy động sự đóng góp hỗ trợ về cơ sở vật chất của các cấp, các ngành, hội cha mẹ học sinh.
- Tạo không khí thi đua trong tập thể giáo viên, giúp giáo viên không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, tạo mọi điều kiện thuận lợi để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
- Thiết lập các kênh thông tin về chăm sóc giáo dục trẻ để giáo viên trong nhà trường cập nhật nhanh nhất những tri thức, khoa học hiện đại về quá trình nuôi dạy trẻ, vận dụng có hiệu quả những tri thức đó phục vụ trong việc rèn
luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ.
* Về phía giáo viên
- Không ngừng nâng cao, hoàn thiện về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện tốt chương trình đổi mới trong giáo dục.
- Chuẩn bị môi trường giáo dục, sưu tầm, làm đồ dùng, đồ chơi từ những nguyên vật liệu sẵn có của địa phương phục vụ cho các tiết dạy để trẻ hứng thú.
- Thường xuyên đánh giá hoạt động dựa trên các mục tiêu yêu cầu đề ra trong từng chủ đề để giáo dục rèn luyện nề nếp cho trẻ.
- Tiếp cận các kênh thông tin, các phương tiện kỹ thuật hiện đại làm tăng thêm hiệu quả cho việc rèn luyện nề nếp cho trẻ.
- Phối hợp với nhà trường và gia đình, cha mẹ học sinh, bản thân giáo viên nghiên cứu tài liệu để giáo viên nắm vững các biện pháp “ Rèn luyện nề nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 24-36 tháng tuổi”.;
Là một gíao viên mầm non phải cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và vai trò trách nhiệm với cái tên người mẹ thứ hai của trẻ. Thật sự yêu mến trẻ, nhiệt tình và say mê với công việc, có tấm lòng yêu thương trẻ thực sự.
Xuất phát từ thực tiễn, nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành học mầm non theo định hướng đổi mới hình thức tổ chức. Với những biện pháp tôi đã thực hiện trên trẻ ở độ tuổi 24 - 36 tháng trong năm học 2015 - 2016.
Do đề tài được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một nhóm trẻ, vì thế một số kinh nghiệm tôi đưa ra không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Qua đây tôi rất mong được các cấp lãnh đạo và bạn đồng nghiệp đọc, góp ý, xây dựng bổ sung thêm để giúp tôi có được bài học kinh nghiệm tốt hơn để áp dụng trong quá trình công tác của bản thân, đặc biệt nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ mầm non nói chung, trẻ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!