A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc giáo dục trẻ em từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời là một việc làm vô cùng cần thiết và hết sức quan trọng trong sự nghiệp GD&ĐT để bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước.
“
Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”
Với khẩu hiệu đó lại càng khẳng định thêm vai trò của toàn xã hội, gia đình, nhà trường, các tổ chức, các cá nhân, các nhà hảo tâm cùng chung tay gánh vác trong việc tạo điều kiện về cơ sở vật chất và môi trường học tập thân thiện để hình thành và phát triển nhân cách con người mới cho các cháu trong tương lai.
Trong luật giáo dục năm 1998 đã nêu rõ:
“Giáo dục mầm non là một hệ thống giáo dục đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Do vậy nhiệm vụ của GDMN có nhiệm vụ phải tạo điều kiện đầy đủ về CSVC, đồ dùng trang thiết bị, môi trường học tập phong phú, chăm sóc và giáo dục các cháu, nhằm phát triển toàn diện về các mặt như: thể chất, tinh thần, trí tuệ, thẩm mỹ… để hình thành những yếu tố đầu tiên về nhân cách của trẻ và chuẩn bị tâm thế ban đầu cho trẻ trước khi bước vào lớp 1 phổ thông.
Trong những năm qua, GDMN đã có nhiều những bước chuyển dịch về chất lượng giáo dục của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Để tiếp tục phát huy những thành quả của GDMN đã đạt được trong nhiều năm qua, cần đòi hỏi những người làm công tác giáo dục nói chung, đặc biệt là những người làm công tác quản lý GDMN nói riêng, trước hết cần phải làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường. Để khẳng định thêm vai trò của GDMN là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội, nhằm tạo cơ sở tiền đề tốt nhất về cơ sở vật chất, đồ dùng trang thiết bị học tập hiện đại và một môi trường học tập phong phú, lành mạnh, để giúp trẻ phát triển toàn diện về các mặt đức, trí, thể, mỹ và lao động, nhằm hình thành nhân cách và trí thức cho thế hệ tương lai.
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Tên đề tài: “Một số kinh nghiệm thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục trong trường mầm non Mỹ Hưng, Huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội” năm thứ 2.
2. Lý do chọn đề tài:
a. Cơ sở lý luận:
Như chúng ta đã biết, công tác xã hội hóa giáo dục trong giai đoạn hiện nay đã được coi như một phương châm, một phương thức, một cách làm giáo dục. Hàng loạt các công trình khoa học, các báo cáo tham luận, tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn đã giúp mọi người có được cách nhìn đúng đắn hơn về công tác xã hội hóa giáo dục.
Song song với các hoạt động thực tiễn, trong xã hội vẫn còn có nhiều quan điểm đánh giá việc thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục khác nhau, thậm trí còn trái ngược nhau. Chính vì vậy, một trong những vấn đề cần đòi hỏi, bức xúc nhất của các nhà quản lý giáo dục là cần phải có những tiêu chí cơ bản trong việc đánh giá công tác này để đối chiếu, so sánh và quan trọng hơn là cần định hướng đúng đắn vào các hoạt động thực tiễn.
Xã hội hóa GDMN chính là một bộ phận của xã hội hóa giáo dục, được vận dụng vào đặc thù của GDMN. Xã hội hóa giáo dục phải được xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ và vai trò của GDMN đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và ngược lại từ phía xã hội đối với sự phát triển của GDMN.
Từ vị trí và đối tượng của mình, GDMN của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay đang có số lượng học sinh học trong các trường công lập đông nhất, được ưu tiên đầu tư kinh phí lớn nhất và đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển của các bậc học khác trong hệ thống giáo dục Quốc dân. Tuy nhiên trên thực tế GDMN vẫn còn nhiều hạn chế, do GDMN hiện nay đang đứng trước những thử thách lớn về CSVC, đồ dùng trang thiết bị dạy và học còn hạn chế và thiếu thốn. Đặc biệt là những địa phương nằm xa khu trung tâm, đời sống của nhân dân còn khó khăn. Mặt khác còn là sự mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển GDMN và ngân sách đầu tư của nhà nước cho GDMN còn hạn chế. Ngoài ra cũng là sự mâu thuẫn giữa một mặt là yêu cầu của công tác phổ cập GDMN cho trẻ 5 tuổi, đòi hỏi cần phải phát triển GDMN với quy mô rộng lớn của lớp mẫu giáo 5 tuổi cần đảm bảo đủ điều kiện tối thiểu về CSVC, đồ dùng trang thiết bị theo thông tư 02/2010/TT-BGD&ĐT ngày 11/02/2010, với một mặt là còn một số trường xa trung tâm, vẫn chưa đủ điều kiện để phát triển, mà khó khăn trước hết chính là CSVC, đồ dùng trang thiết bị học tập và một môi trường học tập cho các cháu ở tại trường.
Từ những vấn đề khó khăn trên đang đặt ra, mà mục tiêu chung của việc phát triển GDMN đến năm 2015 là nhanh chóng mở phạm vi chất lượng CSGD trẻ từ 0- dưới 6 tuổi, cần đòi hỏi các nhà giáo dục nói chung, đặc biệt là các nhà quản lý GDMN nói riêng cần phải làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến về kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ cho toàn xã hội và thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường.
b. Cơ sở thực tiễn:
* Thuận lợi:
Là năm thứ 2 nhà trường thực hiện công tác phổ cập GDMN cho trẻ 5 tuổi, do vậy nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng GD&ĐT, sự quan tâm ủng hộ của lãnh đạo các cấp, các ban ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội, các cá nhân, các nhà hảo tâm tại địa phương về vật chất, tinh thần, đưa ra các giải pháp chiến lược cụ thể để giúp nhà trường từng bước tháo gỡ những khó khăn, quyết tâm đưa nhà trường đi lên và tiếp tục đạt danh hiệu
“Trường tiên tiến cấp cơ sở”.
Được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp, các ban ngành đoàn thể, Hội cha mẹ học sinh, các nhà hảo tâm, đến nay nhà trường đã có tương đối đủ phòng học. Đồng thời đã mua sắm được nhiều trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giảng dạy như: Máy vi tính, màn chiếu, ti vi, đầu video, giá đựng đồ chơi, tủ, kệ, bàn ghế, biểu bảng, đồ dùng đồ chơi, các loại trang thiết bị phục vụ cho công tác nuôi dưỡng… theo hướng hiện đại.
Trường đã có đội ngũ giáo viên, nhân viên trẻ, nhiệt tình, yêu nghề, có tinh thần học hỏi, chịu khó, kiên trì trong công việc, được phân công theo đúng định biên, có trình độ chuyên môn chuẩn đạt 100% và đạt trên chuẩn 37,3%.
Đội ngũ giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong công tác xã hội hóa giáo dục và công tác dân vận, biết tạo môi trường thân thiện cho trẻ để kích thích phụ huynh cho con em mình đi học đông và các cháu thích đi học.
Các cháu đến trường được chăm sóc và học theo chương trình đúng độ tuổi, riêng 5 tuổi đã được đầu tư và ưu tiên về CSVC và kinh phí.
* Khó Khăn:
Đầu năm học 2013 - 2014 về CSVC và đội ngũ giáo viên, nhân viên của nhà trường tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực, tiến bộ hơn rất nhiều so với những năm học trước đây, song nhà trường vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Cụ thể như sau:
- Phòng học của trẻ một số khu còn chưa đảm bảo với yêu cầu chuẩn, còn phải học tạm và chật chội (Khu Thiên Đông + Phượng Mỹ).
- 3/4 khu trẻ 3-4 tuổi chưa được học tách riêng đúng độ tuổi (Toàn trường mới chỉ có một khu Quảng Minh trẻ đã được học tách riêng theo đúng độ tuổi).
- Bếp ăn còn chật chội, nằm riêng biệt, xa các khu vực học tập của trẻ, do vậy đã rất khó khăn trong việc vận chuyển thức ăn cho trẻ đến các khu (Phải vận chuyển thức ăn đi 100% các khu).
- Phòng hiệu bộ, các phòng chức năng và phòng họp riêng cho cán bộ, giáo viên, nhân viên chưa có.
- Môi trường học tập của trẻ và công trình vệ sinh cho trẻ một số khu chưa đảm bảo và còn thiếu (Khu Thiên Đông, Thạch Nham và Phượng Mỹ).
- Trang thiết bị đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học của nhà trường còn chưa đầy đủ.
- Về phía phụ huynh, do đặc thù hầu hết phụ huynh trong trường đều làm nông nghiệp là chính, nên mức thu nhập kinh tế trong gia đình còn thấp, trình độ văn hóa còn hạn chế. Do vậy nhận thức về tầm quan trọng của GDMN còn chưa đồng đều và chưa đầy đủ, nên còn rất nhiều phụ huynh trong trường vẫn còn chưa thực sự quan tâm đến con em mình và chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn hiện nay.
- Trong công tác lãnh đạo chỉ đạo, đặc biệt là công tác xã hội hóa giáo dục của bản thân vẫn còn nhiều hạn chế và chưa có nhiều kinh nghiệm ….
* Tóm lại: Từ những thuận lợi và khó khăn trên, tôi nhận thấy chủ trương huy động về công tác xã hội hóa GDMN trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề bức thiết và cần phải làm ngay. Vì nó sẽ góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng của cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân tại địa phương về tầm quan trọng và vai trò của GDMN. Trên cơ sở xã hội hóa giáo dục sẽ tạo được nguồn cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi và môi trường học tập thân thiện thật tốt cho các cháu, đảm bảo mọi điều kiện, nhằm đáp ứng nhu cầu về chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Từ những lý luận và thực tiễn trên, tôi nhận thấy mình cần tiếp tục chọn đề tài
“Một số kinh nghiệm thực hiện công tác xã hội hóa giáo trong trường mầm non Mỹ Hưng, Huyện Thanh Oai, Thành phố Hà nội” năm thứ 2 để thực hiện trong năm học 2013 - 2014.
3. Phạm vi và thời gian thực hiện đề tài:
Đề tài được thực hiện tại trường mầm non Mỹ Hưng, Huyện Thanh Oai, Thành phố Hà nội năm học 2013 - 2014.
C. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện:
* Về cơ sở vật chất đồ dùng trang thiết bị:
- Toàn trường vẫn còn 5/12 phòng học chưa đảm bảo với yêu cầu chuẩn (Trong đó có 1 phòng học tạm, 2 phòng cấp 4 đã xuống cấp).
- Khu Thiên Đông, Thạch Nham và Phượng Mỹ công trình vệ sinh còn chật chội, chưa đảm bảo, nền nhà ẩm thấp, đường điện chưa đảm bảo, môi trường học tập và cảnh quan sư phạm không đảm bảo.
- 100% các lớp trong toàn trường chưa có phản ngủ, xốp chải nền và đệm nằm cho trẻ vào mùa đông.
- Bếp ăn của nhà trường nằm độc lập, xa các khu và còn chật chội, đồ dùng phục vụ cho công tác nuôi dưỡng còn thiếu thốn (Phải chuyên trở thức ăn cho 100% trẻ toàn trường đến cả 4/4 khu).
- Chưa có các phòng chức năng và phòng họp riêng cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và nơi làm việc riêng của Ban giám hiệu nhà trường.
- Đồ dùng trang thiết bị theo hướng hiện đại phục vụ cho công tác giảng dạy của nhà trường còn rất hạn chế, chưa đáp ứng đủ cho các lớp trong toàn trường (Mới ưu tiên được cho 4 lớp 5 tuổi có đủ đồ dùng theo yêu cầu tối thiểu).
- Môi trường cảnh quan sư phạm và các loại biểu bảng của nhà trường còn chưa đảm bảo.
* Về nhận thức tư tưởng của cán bộ lãnh đạo, nhân dân và phụ huynh tại địa phương:
Năm học 2013 - 2014, tuy nhận thức tư tưởng về GDMN của cán bộ lãnh đạo, nhân dân địa phương, đặc biệt là phụ huynh học sinh đã có nhiều tiến bộ và chuyển biến tích cực hơn. Song nhận thức về tư tưởng của họ vẫn còn chưa đồng đểu và chưa đầy đủ. Sự quan tâm ủng hộ về các mặt đối với nhà trường, đặc biệt là đối với các cháu còn hạn chế.
* Về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên:
- Tổng số CB- GV- NV toàn trường: 51 đồng chí.
Trong đó:
+ Cán bộ quản lý: 3 đồng chí;
+ Giáo viên: 34 đồng chí;
+ Nhân viên: 14 đồng chí.
- Trình độ chuyên môn:
+ CĐ & ĐH: 19 đ/c đạt tỷ lệ 37,3 %;
+ Trung cấp: 32 đ/c đạt tỷ lệ 62,7% (Trong đó có 16 đ/c đang theo học lớp ĐH sư phạm ).
- Nhận thức về tư tưởng và công tác tuyên truyền xã hội hóa giáo dục:
Hầu hết cán bộ, giáo viên, nhân viên trong toàn trường đều có lập trường tư tưởng vững vàng và đã biết cách làm công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn nhiều mặt hạn chế, do vậy số lượng trẻ được đến trường so với kế hoạch được giao chưa đạt chỉ tiêu (86%). Sau đây là kết quả khảo sát về việc thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường đầu năm học 2013 - 2014 đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên trong toàn trường. Cụ thể như sau: Tổng số 51 đồng chí
Xếp loại |
Số lượng |
Đạt tỷ lệ % |
- Xếp loại tốt
- Xếp loại khá
- Xếp loại ĐYC
- Xếp loại không ĐYC |
4
10
28
9 |
7,8
19,6
54,9
17,7 |
Sau khi khảo sát về tình hình thực tế của nhà trường về các lĩnh vực đặc biệt là công tác xã hội hóa giáo dục trong năm học 2013 - 2014. Đứng trước tình hình thực tế hiện nay, trường mầm non Mỹ Hưng đang gặp rất nhiều khó khăn và thách thức về CSVC, đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động CS&GD trẻ của nhà trường. Bên cạnh đó nhận thức về tư tưởng của một số bộ phận Đảng viên và nhân dân địa phương về GDMN còn hạn chế. Do vậy tôi đã tự nhận thấy rằng chủ trương về công tác xã hội hoá GDMN của nhà trường trong năm học 2013-2014 vẫn là một vấn đề bức thiết và tiếp tục cần phải làm trong năm học 2013 - 2014. Tôi đã đề ra một số biện pháp tiếp tục thực hiện công tác xã hội hoá GDMN trong nhà trường năm thứ 2, cụ thể như sau:
* Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch năm học.
* Biện pháp 2: Bồi dưỡng về nhận thức tư tưởng chính trị và kỹ năng làm công tác tuyên truyền cho cán bộ, giáo viên, nhân viên toàn trường.
* Biện pháp 3: Chỉ đạo công tác nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ.
* Biện pháp 4: Tăng cường nâng cao nhận thức tư tưởng đối với các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội, các đoàn thể, các cá nhân, các nhà hảo tâm và nhân dân địa phương về vai trò, vị trí của GDMN trong giai đoạn hiện nay đối vơi sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và của địa phương nói riêng.
* Biện pháp 5: Quan tâm chăm lo đến đời sống, tinh thần cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và các cháu trong nhà trường.
2. Nội dung thực hiện các biện pháp:
* BIỆN PHÁP I: XÂY DỰNG KẾ HOẠCH NĂM HỌC
Như chúng ta đã biết, để thực hiện nhiệm vụ năm học được tốt, thì việc xây dựng kế hoạch cho năm học là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Dựa vào kế hoạch mà ta có thể định hướng nhiệm vụ của từng tuần, từng tháng, từng giai đoạn. Khi xây dựng kế hoạch phải rõ ràng, cụ thể ngay từ đầu năm học, để kế hoạch phù hợp, sát với thực tế và không bị động. Trong quá trình thực hiện cần phải có sự bàn bạc và thống nhất cao của Ban chi uỷ, Ban giám hiệu và tập thể CB-GV-NV toàn trường. Bởi vì các hoạt động trong nhà trường không thể hoàn thành một sớm, một chiều mà cần phải có thời gian để thực hiện, khi thực hiện thì cần phải theo một trình tự nhất định. Bởi vậy muốn nâng cao chất lượng toàn diện trong toàn trường, bản thân người đứng đầu nhà trường cần phải xây dựng kế hoạch tổng thể và xác định rõ từng phần việc cụ thể.
Cụ thể như sau:
a. Kế hoạch đầu tư CSVC:
Ngay từ đầu năm học, tôi đã xác định rõ việc đầu tư kinh phí để xây dựng CSVC và cải tạo lại phòng học cho các cháu tại khu Thiên Đông, Thạch Nham, Phượng Mỹ, bếp ăn, nhà vệ sinh, xây dựng văn phòng nhà trường và đặc biệt là xây dựng cảnh quan môi trường sư phạm cho các cháu tại các khu để đáp ứng với yêu cầu về chất lượng CS&GD trẻ. Đồng thời đầu tư để mua sắm thêm trang thiết bị nhà bếp, hệ thống bếp ga và các phương tiện phục vụ cho việc dạy và học của giáo viên và các cháu…là nhiệm vụ trọng tâm của năm học.
Sau khi đã xác định rõ việc đầu tư kinh phí để tiếp tục xây dựng, cải tạo lại CSVC và mua sắm đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho công tác CS&GD các cháu trong năm học 2013 - 2014, tôi đã đưa ra để bàn bạc thống nhất trong Ban chi uỷ, Ban giám hiệu nhà trường, đồng thời có kế hoach dự trù kinh phí.
Để kế hoạch đầu tư kinh phí xây dựng CSVC cho nhà trường đạt hiệu quả cao, tôi đã bàn bạc và thống nhất với các đồng chí trong Ban chi uỷ, Ban giám hiệu nhà trường và xây dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết cho từng phần việc, sau đó báo cáo Phòng GD&ĐT, UBND xã cùng các ban ngành đoàn thể tại địa phương, Ban đại diện hội phụ huynh học sinh để huy động nguồn kinh phí xã hội hoá giáo dục tại địa phương.
Sau khi kế hoạch được triển khai cụ thể, nhà trường đã rất phấn khởi được đón nhận sự ủng hộ nhiệt tình bằng cả tinh thần, vật chât (Kinh phí)… từ phía các đồng chí lãnh đạo địa phương, cùng các Ban ngành đoàn thể, Ban đại diện hội phụ huynh, các cá nhân, các nhà hảo tâm cùng toàn thể các bậc phụ huynh trong toàn trường. Cụ thể:
- Uỷ ban nhân dân xã, Hợp tác xã nông nghiệp, Hội nông dân, Hội phụ nữ, đoàn xã, trại Thanh Xuân, Trại T16: 28.000.000 đ;
- Các cá nhân, các nhà hảo tâm: 18.000.000 đ;
- Các bậc phụ huynh: 61.200.000 đ.
b. Kế hoạch nâng cao chất lượngchăm sóc nuôi dưỡng trẻ:
Để có cơ sở thực tế để xây dựng kế hoạch cho năm học, vào đầu tháng 9 tôi đã chỉ đạo giáo viên các nhóm lớp tiến hành cân đo và ghi biểu đồ tăng trưởng cho các cháu, để nắm rõ tình hình sức khoẻ và phân loại tình trạng sức khoẻ của các cháu trong toàn trường.
Sau đây là kết quả theo dõi tình hình sức khoẻ của các cháu toàn trường đầu tháng 9:
Tổng số trẻ được cân đo: 330 cháu.
- Về cân nặng:
Trẻ phát triển bình thường: 284 cháu - đạt tỷ lệ 86,1%
Trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ: 46 cháu - đạt tỷ lệ 13,9%.
- Về chiều cao:
Trẻ phát triển bình thường: 280 cháu - đạt tỷ lệ 84,8%
Trẻ thấp còi: 50 cháu - đạt tỷ lệ 15,2%.
Sau khi đã nắm được tình hình sức khoẻ của các cháu trong toàn trường, tỷ lệ trẻ trong diện suy dinh dưỡng về cân nặng và chiều cao còn cao so với mặt bằng chung của Huyện. Tôi đã tiến hành bàn bạc và thống nhất trong Ban giám hiệu, đồng thời xây kế hoạch giao trách nhiệm cho đồng chí Hiệu phó phụ trách công tác nuôi dưỡng của nhà trường chủ động xây dựng kế hoạch nhằm nâng cao khẩu phần cho các cháu với mức ăn tối thiểu 12.000đ/ngày/cháu. Sau đó đưa ra bàn bạc trước hội đồng sư phạm, khi đã có sự thống nhất trong hội đồng sư phạm nhà trường rồi, tôi tiến hành báo cáo với UBND xã về kế hoạch về mức ăn của trẻ để UBND xã nắm được. Mục đích là để giúp nhà trường triển khai công tác tuyên truyền, đả thông trước tư tưởng của phụ huynh. Tiếp đó tôi tổ chức họp bàn với Ban đại diện hội phụ huynh của từng lớp, đưa ra kế hoạch và kết quả khảo sát tình hình sức khoẻ của trẻ đầu năm để họ nắm được, để cùng bàn bạc và đi đến thống nhất. Khi đã có sự thống nhất cao trong Ban đại diện hội phụ huynh rồi, bước cuối cùng tôi mới tiến hành chỉ đạo các lớp tổ chức họp phụ huynh đại trà từng nhóm lớp. Để hội nghị họp phụ huynh các lớp đạt kết quả cao như kế hoach đã xây dựng, tôi đã yêu cầu Ban đại diện hội phụ huynh của từng lớp cùng phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp tổ chức hội nghị họp bàn và đi sâu vào phân tích về sự quan trọng của sức khỏe trẻ mầm non sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển toàn diện về các mặt, đặc biệt là trí tuệ của trẻ sau này để phụ huynh hiểu rõ hơn. Kết quả là 100% phụ huynh toàn trường đều nhất trí đóng mức ăn của trẻ 12.000đ/ngày/trẻ.
Ngoài mức đóng góp của phụ huynh cho trẻ ăn hàng ngày ra, để tăng thêm khẩu phần ăn cho trẻ, tôi đã xây dựng kế hoạch yêu cầu giáo viên chủ động làm tốt công tác tuyên truyền và công tác xã hội hóa giáo dục để huy động sự đóng góp và ủng hộ bằng kinh phí và các loại thực phẩm sẵn có tại địa phương như: Rau các loại, đậu, lạc, khoai, gạo nếp, trứng…từ các nhà hảo tâm và các cá nhân tại địa phương để thực hiện mỗi tháng một tuần dinh dưỡng cho trẻ vào tuần thứ tư hàng tháng. Kết quả nhà trường cũng đã nhận được sự ủng hộ rất nhiệt tình từ phía cán bộ và nhân dân địa phương, hàng tháng đã thực hiện được tuần dinh dưỡng cho các cháu rất đều đặn.
Để có rau sạch và tăng thêm khẩu phần ăn cho trẻ, tôi còn chủ động xây dựng kế hoạch phát động phong trào thi đua trồng rau sạch và tăng gia sản xuất để cải thiện thêm bữa ăn cho trẻ bằng biện pháp trồng rau xanh tại vườn trường cho trẻ ăn, nếu thừa sẽ bán đi để lấy tiền hỗ trợ thêm vào các bữa phụ chiều cho trẻ, đặc biệt là những trẻ suy dinh dưỡng với mức 1.000đ/cháu/bữa. Với kế hoạch này đã được giáo viên, nhân viên và phụ huynh các cháu tham ra rất nhiệt tình.
Ảnh 1: Nhân viên nhà bếp đang lao động và chăm sóc vườn rau.
c. Kế hoach bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên:
Xuất phát từ nhận thức muốn nâng cao chất lượng CS&GD trẻ trong nhà trường, nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về chất lượng GD hiện nay. Điều trước tiên tôi nghĩ, cần phải trang bị cho đội ngũ CB-GV-NV trong trường có những kiến thức cơ bản nhất trong công tác CS&GD trẻ. Từ những suy nghĩ đó, tôi đã tiến hành XD kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ CB-GV-NV của trường ngay từ đầu năm học, tích cực làm công tác tuyên truyền để tham mưu với các cấp tạo điều kiện cho CBQL và giáo viên cốt cán đi học các lớp đào tạo quản lý hành chính nhà nước, quản lý giáo dục. Đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên, nhân viên tiếp tục đi học các lớp đào tạo trên chuẩn để nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ sử dụng CNTT.
Ngoài kế hoach tạo điều kiện cho đội ngũ CB-GV-NV đi học các lớp đào tạo trên chuẩn, tôi còn chủ động xây dựng kế hoạch bồi dưỡng tại chỗ, thông qua các hội thảo về các chuyên đề, tổ chức xây dựng các chuyên đề mẫu cho giáo viên dự và trao đổi học tập. Để kế hoạch bồi dưỡng có hiệu quả, tôi yêu cầu hai đồng chí Hiệu phó phụ trách từng mảng của nhà trường tiến hành phân loại GV-NV theo độ tuổi và năng lực chuyên môn của từng người. Đồng thời dựa trên kết quả đã đạt được của họ từ những năm trước để có biện pháp bồi dưỡng sao cho phù hợp với khả năng và năng lực của từng người.
Tóm lại: Để đảm bảo chất lượng CS&GD trẻ trong nhà trường, thì việc xây dựng kế hoạch cho năm học là một việc làm vô cùng cần thiết và quan trọng, nhằm trang bị cho các cháu có đầy đủ CSVC, đồ dùng trang thiết bị để sinh hoạt và học tập tại trường. Ngoài ra còn giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên của nhà trường nâng cao thêm trình độ chuyên môn và tích lũy thêm vốn kinh nghiệm trong công tác quản lý, CS&GD trẻ.
* BIỆN PHÁP II: BỒI DƯỠNG VỀ NHẬN THỨC TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VÀ KỸ NĂNG LÀM CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CHO CÁN BỘ, GIÁO VIÊN, NHÂN VIÊN TOÀN TRƯỜNG.
a. Bồi dưỡng về nhận thức tư tưởng chính trị cho CB - GV - NV:
Chất lượng CS&GD của nhà trường phụ thuộc rất lớn vào tư tưởng chính trị và nhận thức của CB-GV-NV toàn trường. Mọi suy nghĩ của họ đều dẫn đến những hành động
“Đúng” hay
“Không đúng” của họ. Do vậy là người đứng đầu nhà trường, tôi cần phải có trách nhiệm đả thông cho họ ngay từ đầu về tư tưởng để họ nhận thức
“Đúng” và
“Thông” về những vấn đề cần triển khai, thì vấn đề
“Vận hành” trong nhà trường cũng sẽ được chôi chảy và thuận lợi.
Đã là GV-NV giỏi về chuyên môn, đồng thời phải có phẩm chất đạo đức và nhân cách tốt mới toàn diện được. Trong thực tế của trường do chưa được quy hoạch vào khu tập trung, các điểm trường vẫn còn nằm rải rác trên cả 5 thôn đội, do đó việc phân công GV-NV phụ trách các lớp gặp rất nhiều khó khăn và phức tạp đối với Ban giám hiệu nhà trường.
Để tâm lý của GV-NV khi được phân công nhiệm vụ được thoải mái và không có mặc cảm khi phải đi dạy ở xa. Ngay từ đầu năm học, tôi đã chủ động XD kế hoạch phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng người. Trước khi phân công, tôi phải dựa vào hoàn cảnh và điều kiện của từng người để sắp xếp sao cho hợp lý, sau đó đưa ra bàn bạc trong Ban chi ủy và Ban giám hiệu nhà trường để thống nhất. Khi đã bàn bạc thống nhất kỹ rồi, tôi tiến hành gặp gỡ từng đối tượng để đả thông trước về mặt tư tưởng, nhằm giúp họ hiểu ra vấn đề và từng bước xóa bỏ những tư tưởng lệch lạc mà vui vẻ, yên tâm công tác và gắn bó với trường, lớp hơn. Cụ thể: Với những chị em có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và những chị em tuổi đã cao hoặc đang nuôi con nhỏ, bao giờ tôi cũng phải ưu tiên cho họ được dạy ở khu gần hơn, còn những chị em trẻ và son dỗi sẽ phải đi xa hơn. Để tâm ký của chị em được thoải mái hơn, tôi đã XD kế hoạch phân công GV dạy luân phiên, tức cứ hai năm đi xa, sau đó lại được về gần.
Sau khi đã đả thông được tư tưởng của chị em trước rồi, tôi mới tiến hành tổ chức họp Hội đồng sư phạm nhà trường và công khai danh sách phân công nhiệm vụ cụ thể. Kết quả là đa số chị em trong trường đều nhận thức rõ về công việc được giao của mình, yên tâm công tác, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời còn rất nhiệt tình, yêu nghề và mến các cháu hơn.
Ngoài ra để giúp GV-NV thực hiện tốt các nội quy, quy định của nhà trường, tôi đã thống nhất và bàn bạc với các đồng chí trong Ban chi ủy và Ban giám hiệu nhà trường để tổ chức tốt Hội nghị cán bộ, viên chức. Mục đích là để cùng thảo luận, XD và thống nhất các tiêu chuẩn thi đua, các nội quy và quy chế của nhà trường để họ cùng thực hiện.
Trong việc quản lý đội ngũ GV-NV, tôi cũng đặc biệt lưu ý đến vấn đề góp ý XD cho từng đồng chí. Cụ thể: Với những đồng chí GV-NV nhiệt tình và có ý thức tốt trong công tác, tôi thường xuyên nêu gương và động viên họ trước tập thể. Còn với những GV-NV chưa nhiệt tình, có vi phạm ký luật về quy chế, nhưng chưa đáng phải đưa ra trước tập thể, tôi đã tìm cách gặp riêng để góp ý XD giúp họ sửa chữa. Mục đích là để họ không bị bất mãn, thấy mình không bị xúc phạm mà vẫn được tôn trọng.
Tóm lại: Ngoài công tác bồi dưỡng về nhận thức, những tiềm năng của con người về lòng tự trọng, ước muốn phát triển. Đồng thời phải xác định cho mình đúng hướng đi phù hợp với quá trình công tác, có như vậy mới thực hiện được tốt kế hoạch nhiệm vụ của mình đã đề ra.
b. Bồi dưỡng kỹ năng làm công tác tuyên truyền cho CB-GV-NV:
Như chúng ta đã biết, công tác tuyên truyền là một vấn đề hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng CS&GD trẻ trong nhà trường. Đó cũng chính là một khâu quan trọng nhất trong quá trình làm công tác XH hóa GD. Vì vậy để tuyên truyền được tốt, trước hết phải lấy được lòng tin của các cấp lãnh đạo, nhân dân địa phương và đặc biệt là phụ huynh của các cháu.
Muốn lấy được uy tín và lòng tin trong cán bộ lãnh đạo, nhân dân địa phương và phụ huynh, trước hết CB-GV-NV trong nhà trường cần phải làm tốt công tác chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời phải có kỹ năng làm công tác tuyên truyền tốt, thì mới thu hút và thuyết phục được mọi người tham gia ủng hộ nhà trường.
Để đội ngũ GV-NV trong nhà trường có được kỹ năng làm công tác tuyên truyền tốt, nhằm thuyết phục mọi tầng lớp cán bộ và nhân dân địa phương. Trước tiên tôi cần phải hướng dẫn và bồi dưỡng cho họ về kỹ năng làm tuyên truyền bằng cách hướng dẫn họ soạn thảo các nội dung cần tuyên truyền sao cho ngắn gọn, xúc tích, đủ ý và nội dung soạn thảo đó phải đảm bảo thực tế và gắn liền với nhu cầu của phụ huynh. Điều quan trọng khi đã soạn thảo được nội dung cần tuyên truyền rồi, thì GV-NV cần rèn luyện cho mình kỹ năng nói sao cho thật lưu loát, trình bày phải mạch lạc, cử chỉ nét mặt phải thân thiện thì mới thuyết phục được mọi người.
Để giúp CB-GV-NV có được kỹ năng tuyên truyền, ngoài việc bồi dưỡng cho họ kỹ năng làm tuyên truyền ra, tôi còn XD kế hoạch tổ chức cho CB,GV,NV được trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về công tác tuyên truyền xã hội hóa GD thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, các chuyên đề, các buổi họp hội đồng sư phạm của nhà trường.
Tóm lại: Thông qua việc bồi dưỡng và tổ chức cho CB,GV,NV được trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về công tác xã hội hóa GD trong nhà trường, đã giúp cho đội ngũ GV-NV của trường được học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm về công tác tuyên truyền của nhau. Đồng thời còn giúp chị em mạnh dạn hơn, tự tin hơn và có kỹ năng hơn khi giao tiếp với mọi người, đặc biệt là kỹ năng làm tuyên truyền để thực hiện công tác XH hóa GD trong nhà trường.
* BIỆN PHÁP III: CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CS&GD TRẺ.
Để thực hiện tốt công tác xã hội hóa GD trong nhà trường, chúng ta không thể nào không nói đến công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng CS&GD trẻ. Nếu thực hiện được tốt công tác này, sẽ là phương tiện cơ bản nhằm CS&GD toàn diện về các mặt cho các cháu. Đồng thời sẽ lấy được lòng tin của cán bộ, nhân dân địa phương đặc biệt là phụ huynh của các cháu. Do vậy muốn nâng cao được chất lượng CS&GD các cháu, bản thân người đứng đầu nhà trường cần phải nắm chắc tình hình hoạt động của nhà trường và am hiểu về mọi mặt để chỉ đạo và đôn đốc GV-NV thực hiện. Lênin đã viết:
“Không thể nào quản lý được nếu như không có tri thức và khoa học quản lý. Muốn quản lý tốt phải am hiểm thành thạo công việc…”.
Để quản lý tốt các hoạt động của nhà trường có hiệu quả mà không bị gián đoạn, trước tiên tôi đã nghĩ ngay đến việc phải ổn định về công tác nhân sự. Vào đầu tháng 8, để chuẩn bị cho năm học mới, tôi đã chủ động XD kế hoạch phân công và sắp xếp GV-NV phụ trách sao cho hợp lý, phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn và điều kiện hoàn cảnh của từng người và tôi đặc biệt lưu ý đến việc sắp xếp đội ngũ GV dạy lớp 5 tuổi.
Ví dụ: Tôi đã sắp xếp GV có nhiều kinh nghiệm đi kèm với những GV chưa có kinh nghiệm, GV có chuyên môn vững đi kèm với những GV còn hạn chế về chuyên môn, GV nhiều tuổi đi kèm với những GV trẻ. Riêng đội ngũ GV dạy 5 tuổi, tôi đã chọn và sắp xếp những GV trẻ, có năng lực, nhiệt tình trong công việc.
Khi đã sắp xếp xong phần nhân sự, tôi tiến hành họp Ban giám hiệu và phân công rõ từng mảng việc cho 2 đồng chí Hiệu phó:
- Mảng chất lượng về công tác CS nuôi dưỡng, giao cho đồng chí Ngô Thị Tân phụ trách.
- Mảng chất lượng về công tác GD, giao cho đồng chí Nguyễn Thị Mai phụ trách.
Tôi yêu cầu cả 2 đồng chí Hiệu phó chủ động XD kế hoạch chỉ đạo theo lĩnh vực được giao, sau đó duyệt và tiến hành họp Hội đồng sư phạm để thông qua các chỉ tiêu kế hoạch, nhằm giúp GV-NV toàn trường nắm được và thực hiện. Trong khi thực hiện công tác CS&GD các cháu, Ban giám hiêu đã XD kế hoạch tăng cường đi kiểm tra đột xuất và kiểm tra có báo trước để nắm được tình hình hoạt động của GV-NV và có kế hoạch đôn đốc nhắc nhở và uốn nắn.
- Đối với công tác CS nuôi dưỡng: Tôi yêu cầu đồng chí Hiệu phó phụ trách chất lượng nuôi dưỡng chủ động XD thực đơn cho trẻ phù hợp với thực tế địa phương, đối với từng lứa tuổi của trẻ và đảm bảo thực đơn tuần chẵn, tuần lẻ mà không bị lặp lại. Hàng ngày phải cân đối đinh lượng thực phẩm, nhằm đảm bảo khẩu phần và tỷ lệ các chất dinh dưỡng theo yêu cầu. Để quản lý chặt chẽ thực phẩm cuả các cháu hàng ngày, tôi đã quán triệt và chỉ đạo CB-GV-NV thực hiện nghiêm túc theo đúng quy trình giao nhận thực phẩm sống và thực phẩm chín tại nhà bếp và tại các nhóm lớp.
Để đảm bảo tuyệt đối công tác VS dinh dưỡng và ATTT trong nhà trường, tôi đã tiến hành làm hợp đồng chặt chẽ với các nhà cung ứng thực phẩm, yêu cầu họ phải giao thực phẩm tại nhà bếp theo đúng quy trình và phải đảm bảo thực phẩm tươi ngon và không để xảy ra trường hợp nào bị ngộ độc thực phẩm.
Ngoài việc quản lý chặt chẽ các khâu giao nhận và chế biến thực phẩm, để nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Tôi đã chỉ đạo GV- NV thực hiện tốt các hoạt động như: Vệ sinh cá nhân, tổ chức giờ ăn, giờ ngủ cho trẻ sao cho hợp lý và cân đo, theo dõi biểu đồ SK cho trẻ có nề nếp. Ngoài ra tôi còn yêu cầu GV thực hiện tốt công tác tuyên truyền cho các bậc phụ huynh về phương pháp nuôi dạy trẻ theo khoa học và có biện pháp phòng và chống các dịch bệnh, cho trẻ ăn mặc phù hợp với từng mùa vụ trong năm, nhằm đảm bảo sức khỏe và phòng tránh giảm tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng.
- Đối với việc thực hiện công tác GD: Tôi cũng yêu cầu đồng chí Hiệu phó phụ trách công tác GD tiến hành lên kế hoạch cụ thể cho việc chỉ đạo hoạt động chuyên môn theo kế hoạch cả năm, từng tháng và từng tuần. Sau đó tổ chức họp thống nhất kế hoạch theo từng tổ chuyên môn và tiến hành thực hiện.
Để chỉ đạo GV thực hiện tốt chương trình GD theo các chủ điểm, trong khi GV thực hiện chương trình GD, Ban giám hiệu chúng tôi đã thường xuyên đi kiểm tra đột xuất việc thực hiện quy chế chuyên môn của GV, kiểm tra hồ sơ sổ sách, dự giờ góp ý cho từng GV thông qua các hoạt động: Hoạt động chung, hoạt động góc, HĐNT,…nhằm giúp GV có được những phương pháp tổ chức linh hoạt, sáng tạo mà không bị gò bó và áp đặt trẻ, đồng thời phù hợp với thực tế của địa phương.
Ngoài việc chỉ đạo GV thực hiện tốt chương trình GD, thì việc XD môi trường học tập thân thiện cho trẻ tại trường cũng vô cùng quan trọng. Do vậy, ngay từ đầu năm học tôi đã chỉ đạo GV phải lưu ý và đặc biệt quan tâm đến việc XD tạo cảnh quan môi trường học tập cho trẻ tại lớp học của mình, nhằm thu hút trẻ thích đi học và tích cực tham gia các hoạt động ở trường.
Để GV có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc XD và tạo cảnh quan môi trường học tập cho các cháu, tôi đã tạo điều kiện và tổ chức cho chị em được đi tham quan học tập tại các trường điểm, lớp điểm trong Huyện và Thành phố. Ngoài việc đi tham quan, tôi đã cùng kết hợp với đồng chí Hiệu phó phụ trách công tác GD tổ chức các chuyên đề XD môi trường học tập cho trẻ tại khu trung tâm cho toàn thể GV trong trường được dự và học tập rút kinh nghiệm. Kết quả là 100% GV các nhóm lớp của trường đã có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng tốt trong việc thực hiện công tác GD trẻ và tạo cảnh quan môi trường học tập thân thiện cho các cháu ở trường. Dưới đây là hình ảnh môi trường học tập mà GV lớp B4 đã thiết kế và tạo cho các cháu hoạt động tại các góc chơi.
Ảnh 2: Một số hình ảnh các góc hoạt động tại lớp B4 do giáo viên đã thiết kế cho trẻ hoạt động góc.
Muốn nâng cao chất lượng GD trong nhà trường, thì hoạt động của Hội đồng chuyên môn trong nhà trường cũng hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng. Do vậy ngay từ đầu năm học, tôi đã XD kế hoạch dự thảo và tổ chức họp Hội đồng chuyên môn của nhà trường, tiến hành phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí phụ trách từng chuyên đề. Đồng thời giao cho đồng chí Hiệu phó XD kế hoạch sinh hoạt chuyên môn cho từng tổ hàng tháng dựa trên kế hoạch của nhà trường. Nhiệm vụ của tổ chuyên môn là XD các chuyên đề cho GV toàn trường được dự và tham khảo, đồng thời bồi dưỡng và dìu dắt những GV chưa có kinh nghiệm và còn hạn chế về chuyên môn. Ngoài ra Hội đồng chuyên môn còn có nhiệm vụ hướng dẫn GV làm đồ dùng đồ chơi bằng nguyên phế liệu, XD tạo góc mở cho trẻ hoạt động và hướng dẫn XD bài giảng điện tử, bài giảng Elening để trình chiếu.
Với những ý tưởng mà tôi đã XD để thực hiện, trong năm học 2013-2014 này chất lượng GD của nhà trường đã tiến bộ rõ rệt, mỗi thành viên trong Hội đồng chuyên môn đều đã nhận thấy mình cần phải có trách nhiệm lớn hơn. Việc nắm bắt mọi hoạt động của toàn thể GV trong trường đã nhanh chóng hơn, có thêm nhiều kinh nghiệm hơn và việc thực hiện chuyên môn cũng tốt hơn so với năm học trước.
Để thực hiện đúng kế hoạch nhiệm vụ năm học đã đề ra nhằm nâng cao chất lượng CS&GD trẻ, ngoài việc chỉ đạo GV-NV thực hiện tốt công tác chuyên môn, thì việc phát động thi đua làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo cũng rất quan trọng và cần thiết. Vì vậy trong năm học tôi đã phát động và tổ chức 2 đợt thi đua làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo vào dịp 20/11 và 8/3. Mỗi lần tổ chức tôi đều suy nghĩ và đặt ra yêu cầu đối với GV, khi thiết kế đồ dùng phải độc đáo, mang tính sáng tạo, không lặp lại các mẫu đồ dùng từ những năm trước và sử dụng được nhiều hoạt động (Có tính đa năng), được làm từ nguyên phế liệu và kinh phí bỏ ra không tốn kém.
Từ những ý tưởng trên, kết quả hầu hết GV trong trường đã rất hăng hái, tích cực thi đua và đã nghĩ được ra rất nhiều ý tưởng sáng tạo để thiết kế các mẫu đồ dùng đồ chơi sáng tạo vừa rẻ tiền, vừa bền lại hấp dẫn trẻ. Dưới đây là hình ảnh các mẫu đồ dùng đồ chơi của GV đã tự thiết kế trong đợt thi làm đồ dùng đồ chơi tự tạo dịp 8/3.
Ảnh 3: Một số đồ dùng đồ chơi tự tạo từ nguyên phế liệu của giáo viên
trong dip 8/3
Tóm lại: Việc quản lý chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng CS&GD trẻ trong nhà trường là một trong những biện pháp vô cùng quan trọng để thực hiện tốt công tác XH hóa GD của nhà trường. Là người đứng đầu nhà trường muốn nâng cao chất lượng CS&GD trẻ để thực hiện công tác XH hóa GD. Bản thân tôi cần phải tích cực nghiên cứu, đi sâu, đi sát trong việc quản lý chỉ đạo chất lượng CS&GD trẻ đối với CB-GV-NV toàn trường. Trong năm học 2013- 2014 này, nhà trường đã thực hiện khá nghiêm túc công tác quản lý chỉ đạo, do vậy kết quả CS&GD trẻ của nhà trường so với những năm học trước đã có nhiều chuyển biến rõ rệt và đã được cán bộ, nhân dân và phụ huynh của các cháu hoàn toàn tin tưởng.
* BIỆN PHÁP IV: TĂNG CƯỜNG NÂNG CAO NHẬN THỨC TƯ TƯỞNG ĐỐI VỚI CÁC CẤP ỦY ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN, CÁC TỔ CHỨC XH, CÁC ĐOÀN THỂ, CÁC CÁ NHÂN, CÁC NHÀ HẢO TÂM VÀ NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG VỀ VAI TRÒ VỊ TRÍ, VỊ TRÍ CỦA GDMN, TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TỄ CỦA ĐẤT NƯỚC NÓI CHUNG VÀ CỦA ĐỊA PHƯƠNG NÓI RIÊNG.
Như chúng ta đã biết, việc nâng cao nhận thức tư tưởng đối với các cấp Ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức XH, các đoàn thể, các cá nhân, các nhà hảo tâm và nhân dân địa phương về vai trò, vị trí của công tác GDMN trong giai đoạn hiện nay là vô cùng quan trọng trong kế hoạch, nhiệm vụ của năm học đã đề ra. Chính đã nhận thức rõ điều này, bản thân tôi đã xác định rõ, để nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ, nhân dân và phụ huynh. Trước tiên tôi cần phải XD kế hoạch tuyên truyền, nhằm đả thông các tư tưởng cho mọi tầng lớp và toàn thể nhân dân tại địa phương, để họ thấy và hiểu rõ tầm quan trọng của công tác CS&GD trẻ MN trong giai đoạn hiện nay là vô cùng quan trọng, nhằm tạo cho trẻ một môi trường học tập tốt để phát triển toàn diện về các mặt đức, trí, thể, mỹ và tình cảm, đặc biệt là tư duy của trẻ…
Để nâng cao nhận thức về tư tưởng cho các đối tượng tại địa phương, tôi đã thực hiện các nội dung tuyên truyền sau:
- Tuyên truyền bằng thông tin đại chúng, bằng cách viết bài tuyên truyền về vai trò trách nhiệm của toàn XH đối với trẻ MN trong giai đoàn hiện nay, vừa là trách nhiệm, vừa là nghĩa vụ trong sự nghiệp GDMN và nhờ đài truyền thanh của xã, các thôn đội phát thanh mỗi tháng ít nhất một lần.
- Tuyên truyền dưới hình thức băng zôn khẩu hiệu kết hợp với đoàn thanh niên, phụ nữ trên địa bàn xã, tuyên truyền ở khu dân cư. Nội dung tuyên truyền nhằm giúp cán bộ, nhân dân và phụ huynh hiểu đươc tầm quan trọng của việc cho trẻ trong độ tuổi mầm non đến trường và sự cần thiết trong việc huy động đóng góp, ủng hộ kinh phí để xây dựng CSVC, mua sắm đồ dùng trang thiết bị, cùng chăm lo cho GDMN, tổ chức tốt các ngày hội ngày lễ cho trẻ.
- Nhà trường chủ động đề nghị đưa nội dung công tác xã hội hóa GDMN vào các nghị quyết họp của Đảng ủy, HĐND xã, UBND xã và các hội nghị của các ban ngành đoàn thể khác trong xã.
- Tuyên truyền qua các ngày hội, ngày lễ, các hội thi của các cháu. Khi tổ chức các hội thi và ngày hội ngày lễ chúng tôi đã có sự chuẩn bị tương đối chu đáo, nhằm tạo lòng tin trong các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương cùng toàn thể phụ huynh của các cháu.
Khi tổ chức các ngày hội, ngày lễ và các hội thi, chúng tôi đều bàn bạc kỹ với Ban đại diện hội phụ huynh của trường và yêu cầu họ cùng kết hợp tham gia tổ chức.
Với ý tưởng trên, nhà trường đã đón nhận sự tham gia, ủng hộ rất nhiệt tình của cán bộ, nhân dân và đặc biệt là phụ huynh của các cháu, đã ủng hộ cho nhà trường không những bằng cả tinh thần, vật chất và kinh phí để mua sắm thêm đồ dùng trang thiết bị, trang trí tạo cảnh quan môi trường học tập và động viên tinh thần cho các cháu trong các ngày hội, ngày lễ và các hội thi, với tổng số tiền là: 182.333.000 đồng. Cụ thể như sau:
- Các thôn đội và phụ huynh đã ủng hộ tiền đầu tháng 8/2013 để quét vôi và sửa chữa một số đồ chơi ngoài trời: 28.000.000 đồng.
- Phụ huynh các lớp đã ủng hộ cho nhà trường để mua xốp trải nền cho các lớp trong tháng 1 và tháng 2/2014: 31.200.000 đồng.
- Phụ huynh toàn trường tự đóng góp tiền để mua bổ xung phản ngủ và đệm nằm và quần áo đồng phục cho các cháu: 59.833.000 đồng.
- Trại Thanh Xuân và trại T16 ủng hộ cho nhà trường 10.000.000 đồng.
- Cụ Nguyễn Bá Vại ủng hộ cho các cháu khu Phượng Mỹ: 6.000.000 đồng.
- Bà Nguyễn Thị Hạnh (Quản trường Khu Quảng Minh) ủng hộ cho các cháu 3.000.000 đồng.
- Bà Nguyễn Thị Thu (Hội phó hội phụ huynh) ủng hộ cho các cháu 3.000.000 đồng và 360 chiếc gối ngủ trị giá 6.300.000 đồng.
- Cán bộ, nhân dân và phụ huynh 2 thôn Quảng Minh và Đan Thầm ủng hộ kinh phí để trang trí, tạo cảnh quan môi trường khu Quảng Minh tổng trị giá 35.000.000 đồng.
- Bà Nguyễn Thị Thu Hương (Hoàn kiếm HN) ủng hộ cho các cháu 20 chiếc chăn len, 3 chiếc mành trúc và một số xoong nồi bằng Inox và nhôm phục vụ cho công tác bán trú.
Ngoài ra nhà trường còn được đón nhận sự hảo tâm của các tập thể, cá nhân, phụ huynh đã tự nguyện ủng hộ cho các cháu các loại lương thực, thực phẩm sẵn có ở địa phương, để hàng tháng nhà trường thực hiện tuần dinh dưỡng cho các cháu.
Với lòng hảo tâm và sự ủng hộ nhiệt tình của cán bộ, nhân dân và phụ huynh, nhà trường chúng tôi đã XD kế hoạch mua sẳm, cải tạo và tạo cảnh quan môi trường cho các khu lớp đã tương đối khang trang, sạch đẹp. Đặc biệt là khu Quảng Minh từ chỗ sân trường lầy lội, chưa có tường bao cổng trường, môi trường cảnh quan sư phạm chưa có…, đến nay khuân viên của khu trường đã thực sự đẹp, đảm bảo mỹ quan, môi trường cảnh quan sư phạm từ bên ngoài sân trường cho đến phía bên trong của các nhóm lớp đã thực sự đẹp mắt, đã gây được lòng tin trong cán bộ, Đảng viên, nhân dân và phụ huynh của các cháu. Dưới đây là một số hình ảnh về cảnh quan môi trường sư phạm mà nhà trường đã thực hiện được trong năm học 2013 - 2014, kinh phí do cán bộ, nhân dân, các nhà hảo tâm và phụ huynh tham gia ủng hộ nhà trường:
Ảnh 4: Một số hình ảnh môi trường cảnh quan sư phạm tại Khu Quảng Minh, trường mầm non Mỹ Hưng.
Tóm lại: Với việc nâng cao nhận thức tư tưởng đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức XH, các đoàn thể, các cá nhân, các nhà hảo tâm và nhân dân địa phương dưới các hình thức tuyên truyền thông qua các ngày hội, ngày lễ và các hội thi của GV và các cháu trong năm. Nhà trường đã rất phấn khởi được đón nhận sự tin tưởng tuyệt đối của cán bộ, nhân dân địa phương và phụ huynh, không những đã hiểu được vai trò, tầm quan trọng của công tác GD trẻ MN trong giai đoạn hiện nay của nhà trường, mà còn ủng hộ bằng cả tinh thần, vật chất, kinh phí cho nhà trường để mua sắm, bổ sung thêm các loại đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho việc CS&GD các cháu. Đồng thời XD cảnh quan môi trường sư phạm, tạo điều kiện tốt nhất cho các cháu có một môi trường học tập tốt, nhằm phát triển toàn diện về các mặt cho các cháu.
* BIỆN PHÁP V: QUAN TÂM CHĂM LO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CHO CÁN BỘ, GIÁO VIÊN, NHÂN VIÊN VÀ CÁC CHÁU.
Chất lượng CS&GD trẻ của nhà trường phụ thuộc rất lớn vào độ ngũ CB-GV-NV. Do vậy là người quản lý, muốn cho phong trào, chất lượng CS&GD của nhà trường đi lên, trước tiên cần phải chú ý đến công tác chăm lo đời sống, tinh thần cho CB-GV-NV và các cháu trong nhà trường, để họ thực sự yên tâm công tác và tích cực học tập.
Chính nhận thức được điều này, mà trong thực tế của nhà trường số lượng CB-GV-NV lại rất đông (Tổng số CB-GV-NV toàn trường: 51 đ/c), số trẻ trong độ tuổi đăng ký đi học tỷ lệ còn thấp, chủ yếu là do đời sống và mức thu nhập của nhân dân trong xã còn quá thấp, trình độ hiểu biết còn hạn chế. Vì vậy đã gặp không ít khó khăn trong công tác tuyên truyền vận động phụ huynh cho con em trong độ tuổi đi học của nhà trường và việc thực hiện công tác CS&GD trẻ của GV-NV toàn trường.
Tuy trong những năm gần đây, đời sống và mức thu nhập của GV-NVMN đã được nhà nước quan tâm, đầu tư và đã được cải thiện. Nhưng so với XH thì ngày công mà chị em đã bỏ ra trong một ngày với những nhiệm vụ nặng nề để chăm sóc và dạy dỗ các cháu cả ngày như vậy thì quả là quá thấp so với ngày công lao động, mà trong thực tế nhà trường vẫn còn rất nhiều chị em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, nên tâm lý của họ vẫn chưa thực sự yên tâm công tác.
Để giúp chị em GV-NV trong trường thực sự yên tâm công tác và tích cực học tập nâng cao trình độ tay nghề. Với chức năng là người đứng đầu nhà trường bản thân tôi rất trăn trở và luôn suy nghĩ, nên phải làm như thế nào để chị em GV-NV trong trường, đặc biệt là những chị em có hoàn cảnh và điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn vẫn nhiệt tình, vui vẻ và thực sự yên tâm công tác. Từ những trăn trở và suy nghĩ trên, tôi đã nghĩ ngay đến việc mình cần phải có kế hoạch để thực hiện sự quan tâm, chăm lo đến đời sống, tinh thần cho CB-GV-NV, đặc biệt là những chị em có hoàn cảnh khó khăn. Có như vậy thì họ mới thực sự yên tâm yên tâm công tác, tích cực tham gia học tập để nâng cao tay nghề và phong trào, chất lượng CS&GD của nhà trường mới đạt hiệu quả cao.
Để thực hiện được nhiệm vụ này, điều trước tiên tôi nghĩ ngay đến việc chỉ đạo Ban chấp hành công đoàn cùng kết hợp với nhà trường XD quy chế và chú ý đến việc quan tâm đến chế độ chính sách cho CB-GV-NV, đặc biệt là những chị em có hoàn cảnh khó khăn trong nhà trường, để có những chính sách ưu tiên nhằm động viên chị em vượt qua khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngoài việc chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc chi trả lương đúng, kịp thời mọi chế độ chính sách theo quy định và yêu cầu CB-GV-NV thực hiện đúng quy chế chuyên môn đảm bảo ngày công, giờ công có hiệu quả. Tôi còn chỉ đạo tổ chức Công đoàn, Chi đoàn, Chi hội phụ nữ … xây dựng các loại quỹ để hoạt động trong năm:
- Quỹ hiếu hỷ, quỹ tình thương để thăm hỏi các công việc hiếu hỷ của CB-GV-NV. Đồng thời thăm hỏi, trợ cấp khó khăn cho những chị em và các cháu có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt như: Chồng, con ốm đau hoặc trong gia đình không may gặp rủi ro, hoạn nạn…
- Quỹ khuyến học khuyến tài, quỹ phụ huynh để khuyến khích, động viên và thưởng cho những CB-GV-NV và các cháu có thành tích cao trong các hội thi và cuối năm học.
Với những suy nghĩ và ý tưởng trên, trong năm học 2013 - 2014 này, nhà trường đã phối hợp với Công đoàn thực hiện khá tốt việc quan tâm chăm lo đến đời sống tinh thần cho CB-GV-NV và các cháu. Đặc biệt là những chị em và những cháu có hoàn cảnh khó khăn không may gặp rủi ro. Cụ thể trong năm học 2013 - 2014 nhà trường đã kết hợp với tổ chức công đoàn trợ cấp cho những đối tượng sau:
+ 5 cháu thuộc gia đình có hoàn cảnh khó khăn mỗi cháu 200.000đ.
+ 2 đồng chí GV có chồng không may gặp rủi ro tai nan giao thông, và mắc bệnh hiểm nghèo, ngoài việc tổ chức cho chị em toàn trường đến thăm hỏi, tôi còn vận động toàn thể chị em CB-GV-NV trong trường cùng tham gia phong trào
“Hãy đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ và giúp đỡ nhau trong lúc đồng nghiệp của mình gặp khó khăn hoạn nạn”. Kết quả 100% chị em CB-GV-NV của trường đều nhiệt tình tham gia phong trào và cùng hỗ trợ cho đồng nghiệp của mình để động viên và giúp đỡ vượt qua nỗi đau mất mát. Cụ thể:
- Nhà trường đã hỗ trợ: 1.000.000 đồng/người;
- Công đoàn đã hỗ trợ: 1.000.000 đồng/người
- Cá nhân CB-GV-NV: 5.100.000 đồng/người (Mỗi người ủng hộ 100.000 đồng/người)
Tóm lại: Với việc quan tâm chăm lo đời sống tinh thần cho CB-GV-NV và các cháu trong năm học 2013 - 2014 này, chị em CB-GV-NV toàn trường đã hết sức phấn khởi, yên tâm công tác và tích cực học tập để nâng cao trình độ tay nghề, nhằm thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động trong nhà trường để thực hiện tốt công tác XH hóa GD.
3. Kết quả thực hiện:
Sau khi thực hiện đề tài kinh nghiệm của bản thân về việc thực hiện công tác xã hội hóa GD của nhà trường năm học 2013 - 2014, tôi đã thu được những kết quả sau:
* Về cơ sở vật chất:
- Đã trang bị tương đối đầy đủ đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho công tác bán trú, các hoạt động dạy và học của giáo viên và các cháu trong toàn trường theo thông tư 02/2010 quy định về đồ dùng đồ chơi tối thiểu cho trẻ mầm non.
- Đã mua sắm được khá nhiều đồ dùng trang thiết bị cho văn phòng riêng của CB-GV-NV toàn trường, tuy chưa được rộng rãi, nhưng cũng đã có đầy đủ bàn ghế văn phòng, tủ hồ sơ, máy vi tính, các loại biểu bảng…
- Đã tôn tạo và quy hoạch lại bếp ăn tập trung tại khu Đan Thầm, tuy chưa đảm bảo theo yêu cầu chuẩn, nhưng cũng đã đủ điều kiện để được UBND Huyện Thanh Oai cấp giấy phép hoạt động bếp ăn tập thể với đầy đủ các loại đồ dùng, dụng cụ nhà bếp và các loại biểu bảng phục vụ cho công tác nuôi dưỡng của nhà trường theo tiêu chuẩn một chiều.
- Đã mua được xốp trải nền, đệm cho trẻ nằm và đóng bổ sung phản ngủ cho 100% các lớp và may đồng phục cho trẻ trong toàn trường: 91.036.000đồng.
- Đã được UBND Huyện Thanh Oai cấp kinh phí để sửa chữa, tôn tạo lại các phòng học, nhà vệ sinh, nhà chia ăn, khu vực vệ sinh, lát lại sân trường, cải thiện lại đường điện, nguồn nước cho trẻ và XD cảnh quan môi trường sư phạm đẹp mắt cho các cháu tại các khu trường với tổng kinh phí 1.895.000.000 đồng.
* Về nhận thức tư tưởng của cán bộ lãnh đạo, nhân dân và phụ huynh:
Hầu hết cán bộ, Đảng viên, nhân dân địa phương và phụ huynh của các cháu đã nhận thức được rõ về vai trò, tầm quan trọng của công tác GDMN trong giai đoạn hiện nay của nhà trường, nên đã ủng hộ rất nhiệt tình không những cả tinh thần, vật chất và kinh phí để tạo điều kiện cho nhà trường mua sắm, trang bị bổ sung thêm các loại đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy và học của GV và các cháu, đồng thời còn tập trung XD cảnh quan môi trường sư phạm tốt nhất cho các cháu học tập và vui chơi.
* Về đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên:
Đa số CB- GV-NV trong trường đều có tư tưởng, lập trường vững vàng, kiên định và đã có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện công tác XH hóa GD, nhằm tuyên truyền vận động cán bộ, nhân dân và phụ huynh tham gia ủng hộ cho nhà trường.
Sau đây là kết quả đánh giá về việc thực hiện công tác XH hóa GD trong nhà trường cuối năm học 2013 - 2014 đối với CB-GV-NV toàn trường.
Tổng số CB-GV-NV là 51 đ/c.
Xếp loại |
Đầu năm học 2013 - 2014 |
Cuối năm học 2013 – 2014 |
Số lượng |
Tỷ lệ % |
Số lượng |
Tỷ lệ % |
- Xếp loại tốt
- Xếp loại khá
- Xếp loại ĐYC
- XL không ĐYC |
4
10
28
9 |
7,8
19,6
54,9
17,7 |
12
31
8
0 |
23,5
61
15,5
0 |
BÀI HỌC KINH NGHIÊM
Sau hai năm thực hiện đề tài kinh nghiệm, tôi đã tự rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
- Muốn nâng cao chất lượng CS&GD trẻ trong nhà trường, thì việc đầu tiên phải làm chính là cần phải làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục. Công tác xã hội hóa giáo dục là điều kiện cần thiết để nâng cao nhận thức cho toàn thể cán bộ, Đảng viên, nhân dân địa phương và phụ huynh thấu hiểu được vai trò, tầm quan trọng của GDMN trong giai đoạn hiện nay. Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục không chỉ là thực tại, mà còn là định hướng lâu dài, kiên trì, bền bỉ trong công cuộc xây dựng một nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy muốn thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục, thì bản thân nhà giáo dục phải biết tranh thủ sự quan tâm của các cấp, các ngành và cộng đồng xã hội, các tổ chức kinh tế trên địa bàn và toàn thể nhân dân địa phương.
- Để có mối quan hệ tốt, tạo nguồn lực về kinh tế, vật chất, tinh thần…trước hết phải biết phát huy hết nội lực trong nhà trường bằng cách nâng cao chất lượng CS&GD trẻ, chỉ đạo giáo viên, nhân viên thực hiện tốt công tác chuyên môn nghiệp vụ, nhiệt tình, năng động và sáng tạo, để tạo niềm tin vững chắc trong cán bộ, nhân dân địa phương và phụ huynh. Hơn thế nữa, là người quản lý phải luôn năng động, sáng tạo, tự tin, nhiệt tình trong công tác… Bên cạnh đó cần phải bồi dưỡng cho đội ngũ CB-GV-NV có được nhận thức tư tưởng vững vàng, kiên định, có kỹ năng tốt trong việc thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục. Đồng thời tích cực bồi dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề, có lương tâm nghề nghiệp, thương yêu các cháu, trung thành, đoàn kết và quyết tâm cao thì mới đi đến thắng lợi.
- Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, không phải là một vấn đề đơn giản mà rất phức tạp nhất là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn kinh tế thị trường. Vì nó đã đụng chạm đến kinh tế, chính trị, đặc biệt là sự nhận thức của mỗi con người. Do vậy là người quản lý trong nhà trường, trước tiên cần phải hiểu được tầm quan trọng của công tác xã hội hóa giáo dục, từ đó phải coi trọng từng bước, trước hết là nhận thức tư tưởng, tránh nóng vội mà phải biết kiên trì, bền bỉ và biết phối hợp với các ban ngành đoàn thể, quần chúng nhân dân, phụ huynh và thiết lập mối quan hệ thật tốt, nhằm huy động sự ủng hộ kể cả bằng tinh thần, vật chất… Đồng thời tham mưu với các cấp lãnh đạo một cách linh hoạt, nhạy bén và khoa học. đó chính là cách nghĩ, cách làm của người làm công tác xã hội hóa giáo dục nói chung và của người quản lý GDMN nói riêng.
D. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ
Để giúp cho các trường mầm non tiếp tục thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục vào những năm học tiếp theo, nhằm nâng cao chất lượng CS&GD trẻ. Chúng tôi cần có những khuyến nghị đối với các cấp lãnh đạo như sau:
- Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, UBND Huyện Thanh oai, phòng GD&ĐT Huyện Thanh Oai, UBND xã Mỹ Hưng tiếp tục quan tâm và sớm quy hoạch đất cho nhà trường để xây dựng khu Trung tâm, dồn 3 điểm lẻ: Phượng Mỹ, Thiên Đông, Thạch Nham tại khu Đìa quan - Phượng Mỹ để xây đủ các phòng học, các phòng chức năng…theo yêu cầu chuẩn cho các cháu. Đồng thời tiếp tục hỗ trợ kinh phí, các loại đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động dạy và học của giáo viên và các cháu.
- Phòng GD&ĐT thường xuyên mở các lớp tập huấn về công tác tuyên truyền, công tác xã hội hóa giáo dục cho cán bộ và giáo viên cốt cán của các trường đi dự và học tập.
- Tiếp tục quan tâm chăm lo cho đời sống, tinh thần và vật chất cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và các cháu để họ yên tâm công tác hơn.
Trên đây là đề tài kinh nghiệm của bản thân tôi đã đề ra và thực hiện trong năm học . Rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học cấp trên, để bản thân tôi có thêm vốn kinh nghiệm và làm tốt hơn nữa trong quá trình làm công tác xã hội hóa giáo dục để nâng cao chất lượng CS&GD trẻ của nhà trường, nhằm đáp ứng với yêu cầu và sự đổi mới GDMN trong giai đoạn hiện nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn!