I-LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Bác Hồ – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam đã có lời dặn dò với ngành học mầm non :
“ Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế nào trước hết phải yêu trẻ . Các cháu nhỏ hay quấy phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các cháu . Dạy trẻ như trồng cây non, trồng cây non được tốt thì sau này các cháu thành người tốt . Dạy trẻ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”.
Bác cho rằng : Đứa trẻ hiền lành hay độc ác không phải do bản chất vốn có của trẻ mà chính là do sự giáo dục của người lớn .
“ Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Ngày nay giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và đánh giá một cách toàn diện ,sâu sắc thì công tác chăm sóc giáo dục trẻ càng mang một ý nghĩa nhân văn cụ thể, càng trở thành một đạo lý của thế giới văn minh.
Thấm nhuần lời dạy của Bác, công tác giáo dục đào tạo thế hệ măng non – những người chủ tương lai của đất nước đã, đang và sẽ là chủ trương lớn của toàn Đảng, toàn dân. Để thực hiện tốt mục đích giáo dục này, cấp học mầm non đã có những bước chuyển lớn nhằm góp phần đặt nền móng đào tạo con người phát triển toàn diện – có đủ sức khoẻ, đủ trí tuệ , tài năng là những chủ nhân tương lai của đất nước, lái con tàu Việt Nam ra đại dương sánh vai các cường quốc năm châu thoả lòng Bác hằng mong ước.
Và để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có tấm lòng yêu nghề mến trẻ một cách thực sự bằng tất cả những gì mình có được cùng với lương tâm nghề nghiệp để đầu tư trí tuệ ,công sức lên mỗi cuốn
giáo trình , mỗi trang giáo án . Trong trường học cô giáo luôn được ví như là
người mẹ thứ hai gần gũi , thương yêu quý mến dạy dỗ trẻ và là điểm tựa vững chắc cho trẻ ngày từ buổi học đầu tiên trẻ đến trường, lớp. Và trường mầm non cũng là nơi đào tạo ,giáo dục trẻ hình thành những cơ sở ban đầu về nhân cách.
Là một giáo viên trực tiếp trong năm học vừa qua tôi luôn tìm tòi áp dụng mọi hình thức đổi mới và nâng cao phương pháp quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Đặc biệt là trong môn học làm quen với văn học, bởi vì môn học này có vai trò rất quan trọng , nó là một phương tiện hỗ trợ cho tâm hồn trẻ thơ rất đắc dụng ,không gì thay thế được .
Trong trường mầm non hoạt động văn học có một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ và văn học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.Trẻ thích những câu truyện cổ tích có ông Bụt, bà Tiên hiện nên giúp đỡ những người hiền lành nhưng nghèo khổ . Qua câu chuyện thần thoại ,truyền thuyết tâm hồn trẻ luôn tưởng tượng bay bổng đầy ước mơ ,trẻ cảm phục lòng dũng cảm của các vị anh hùng trong tình tiết chiến trận .
Thông qua hoạt động văn học giúp trẻ nhận thức được thế giới xung quanh , những truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc từ đó bồi dưỡng cho trẻ tính trung thực, hiền lành , chăm chỉ, lòng nhân ái. Qua đó giáo dục cho trẻ yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên và con người . Ngoài ra hoạt động văn học còn mang tính nghệ thuật thông qua ngữ điệu giúp trẻ cảm nhận được cái hay,cái đẹp trong tiếng mẹ đẻ, những hành vi đẹp trong cuộc sống , trẻ biết được những gì nên làm và những gì không nên làm, qua đó rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu về đạo đức như ngoan- hư, tốt – xấu, thật thà- không thật thà …. Ngoài ra văn học còn giúp phát triển trí nhớ ,tư duy cho trẻ 5-6 tuổi ,giúp trẻ làm quen với cách cầm sách, mở sách, đọc sách đó là những kỹ năng cần thiết cho trẻ chuẩn bị vào lớp một .
Nắm được ý nghĩa và tâm quan trọng của môn làm quen với văn học, tôi
đã nhận thức được rằng mình cần phải tìm tòi đưa ra được những nội dung phương pháp và hình thức dạy đổi mới để kích thích sự hứng thú,say mê của
trẻ vào tiết học nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy, góp phần phát rriển tính chủ động ,tích cực của trẻ .
Từ những suy nghĩ trên đây ,là một giáo viên Mầm non tôi đã mạnh dạn đưa đề tài “ Ứng dụng công nghệ thông tin gây hứng thú cho trẻ vào vào học bộ môn làm quen văn học (Tiết truyện )” vào thử nghiệm .
II-MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Mục đích của tôi khi nghiên cứu đề tài này là nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy để trẻ hiểu nội dung câu truyện ,đánh giá chính xác tính cách các nhân vật qua việc chuẩn bị chu đáo về nội dung, hình ảnh câu truyện mà mình trình chiếu để lôi cuốn trẻ hứng thú vào trong tiết học .
III-THỜI GIAN ĐỊA ĐIỂM :
Trong suốt quá trình nghiên cứu và giảng dạy môn làm quen với văn học tại lớp Mẫu giáo 5-6 tuổi do tôi chủ nhiệm năm học 2011-2012 tại trường Mầm non
PHẦN II : NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1- Cơ sở lý luận về ứng dụng CNTT gây hứng thú cho trẻ vào môn làm quen với văn học ( tiết truyện )
Môn học làm quen với văn học có ý nghĩa và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc phát triển toàn diện các mặt cho trẻ .
Trước hết môn học này có ý nghĩa to lớn , góp phần phát triển 5 mặt cho trẻ ,cụ thể là : ‘Giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển trí tuệ , phát triển thể lực, và rèn luyện lao động’ . Bên cạnh đấy, môn học này còn có nhiệm vụ quan trọng là :
– Cung cấp cho trẻ những kiến thức, trí thức về thế giới xung quanh trẻ .
– Mở rộng hiểu biết và tích luỹ vốn kinh nghiệm cá nhân .
– Làm giầu vốn từ, phát triển ngôn ngữ giầu hình tượng, giầu sức biểu cảm đồng thời rèn luyện khả năng tri giác đối tượng .
– Giáo dục thái độ cách ứng xử cho trẻ thông qua các bài học, dạy trẻ biết yêu quê hương, đất nước, yêu thiên nhiên và con người .
Nắm được tầm quan trọng của bộ môn nên trong năm học 2008-2009 được sự phân công công tác của Ban giám hiệu nhà trường tôi được nhận nhiệm vụ trực tiếp chăm sóc- giảng dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi . Tôi luôn có ý thức rèn luyện , đi sâu vào học tập, nghiên cứu kỹ chương trình giảng dạy của bộ môn “Làm quen với văn học cho trẻ mẫu giáo” . Tôi luôn suy nghĩ phải làm gì? làm như thế nào để nâng cao nghệ thuật giảng dạy giúp trẻ hứng thú học tập ,tiếp thu môn học nhẹ nhàng,sâu sắc.
Qua thực tế những năm chăm sóc giảng dạy trẻ ,tôi nắm được những đặc điểm tâm sinh lý của trẻ là luôn thích khám phá,tìm tòi những điều mới lạ,ngộ
nghĩnh ,do đó tôi suy nghĩ phải thay đổi hình thức dạy như thế nào để trẻ thực sự có hứng thú . Truớc đây tôi đã cải tiến sử dụng đồ dùng trực quan vào các tiết dạy, tuy đã gây được sự hứng thú cho trẻ nhưng kết quả đạt được vẫn chưa cao,bởi có những bài dạy giáo viên khó có thể làm được những hình ảnh động trung thực theo chủ đề giáo dục mà giáo viên muốn trẻ làm quen trong giờ học Chính từ những hạn chế do đồ dùng trực quan đem lại tôi đã nghĩ đến việc sử dụng Công nghệ thông tin vào trong tiết dạy để khắc phục những hạn chế trên .
Hiện nay Công nghệ thông tin được ứng dụng ngày càng nhiều trong giáo dục mầm non.Năm học2008-2009 là năm học đầu tiên Phòng giáo dục và đào tạo Uông Bí thực hiện kế hoạch triển khai dự án ứng dụng Công nghệ thông tin trong giáo dục Mầm non của Bộ giáo dục và đào tạo. Với Công nghệ thông tin chúng ta có thể dử sụng các phần mềm có sẵn hoặc sử dụng chương trình Powerpoint để soạn các hoạt động cho trẻ chơi và học. Đây là một biện pháp không những mang lại hiệu quả cao, gây được hứng thú cho trẻ mà còn có những tiện ích như sau :
– Đáp ứng được nhu cầu thích được làm quen với máy vi tính của trẻ .
– Bài dạy có hình ảnh, màu sắc, âm thanh vui tươi sinh động
– Có thể thực hiện nhiều lần, không ngại tốn nguyên vật liệu
– Nhiều sự vật, hiện tượng khó quan sát được trong tự nhiên thì dễ dàng tìm hiểu được qua phần mềm máy tính .
– Với những hình ảnh động làm cho bài dạy sinh động và tăng sự hứng thú học tập cho trẻ .
– Đưa Công nghệ thông tin vào việc dạy và học cho trẻ sẽ giúp cho giáo viên giải quyết được những khó khăn về giáo cụ trực quan, phát triển được nhiều hình thức luyện tập, tích hợp các hoạt động thuận lợi hơn. Trẻ có nhiều trò chơi linh hoạt, giờ học, giờ chơi sinh động phong phú và dễ tiếp thu hơn .
Nắm được tầm quan trọng của Công nghệ thông tin trong việc dậy học cho trẻ, bản thân tôi lại suy nghĩ và nhận thấy bên cạnh việc phải lựa chọn những hình ảnh âm thanh, bài hát thật gây ấn tượng, bắt mắt với trẻ và phù hợp với chủ đề giảng dậy thì việc sử dụng Công nghệ thông tin cho linh hoạt, phù hợp với từng hoạt động để thu hút sự chú ý của trẻ cũng là điều mà mỗi giáo viên cần phải tìm tòi và học tập thêm. Giải quyết được những vấn trên là chúng ta sẽ đạt được mục tiêu chung của ngành học đó là lấy trẻ làm trung tâm, trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt động một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, trẻ tự học là chính, học qua chơi, qua khám phá, qua tìm hiểu, qua trải nghiệm bằng cách sử dụng các giác quan và khám phá, nhờ vậy mà trẻ có thêm vốn hiểu biết.
2. Cơ sở thực tiễn :
Tôi nghiên cứu vấn đề này tại trường mầm non 19/5 nơi tôi đang công tác. Trong quá trình giảng dạy các môn học, đặc biệt là môn làm quen với văn học tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau .
a) Thuận lợi :
– Tôi nhận được sự quan tâm, giúp đỡ từ Ban giám hiệu nhà trường khi thực hiện đề tài này.
– Tôi nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ Công ty cổ phần than Vàng Danh khi hỗ trợ cả người và phương tiện trình chiếu.
– Nhà trường đã phân theo lớp theo đúng độ tuổi lên tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo viên đứng lớp trong quá trình giảng dạy .
– Nhà trường nằm ở khu trung tâm 314, có điều kiện cơ sở vật chất khá đầy đủ .
b) Khó khăn :
– Trẻ ở địa bàn miền núi, trình độ tiếp thu không đồng đều, các cháu đến lớp rải rác vào các tháng trong năm học, còn có một số cháu không đi học lớp Mẫu giáo 4 – 5 tuổi .
– Nhà trường hiện đã có máy vi tính nhưng chưa có máy chiếu, phông chiếu để thuận tiện cho việc giảng dạy.
Trình độ sử dụng công nghệ thông tin của giáo viên vẫn còn hạn chế.
C- Từ những thuận lợi và khó khăn đó, tôi thấy rằng việc gây hứng thú cho trẻ vào tiết học là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết . Nó là phương tiện phục vụ cho cuộc sống hàng ngày và cũng là cơ sở cho việc lĩnh hội thức sau này ở trường phổ thông
CHƯƠNG II
NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG :
1. Khảo sát :
Năm 2011 – 2012 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp mẫu giáo thực nghiệm 5 – 6 tuổi, tổng số cháu của lớp là 30 cháu. Trong đó có 22 cháu đã học lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi, có 8 cháu chưa học lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi, nên các cháu chưa có nề nếp học tập cũng như các kỹ năng tham gia các hoạt động của tiết chuyện .
2. Đánh giá :
Qua phần khảo sát trên, tôi phải phân loại đối tượng trong lớp để nắm được tình hình thực tế tìm hiểu và giáo dục một số trẻ cá biệt. Tôi thấy rằng tỉ lệ trẻ chưa học qua lớp mẫu giáo nhỡ và tỉ lệ trẻ chưa có các kỹ năng nghe kể chuyện, kĩ năng đàm thoại và kĩ năng kể lại chuyện … là khá cao, và phần lớn đều rơi vào số trẻ chưa học qua lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi và con em dân tộc trong bản .
Do đó chỉ tiêu cần đạt cuối năm học là từ 90 – 98 %
II- GIẢI PHÁP :
- Bồi dưỡng nâng cao nhận thức
Hiện nay Công nghệ thông tin ngày càng được ứng dụng trong nhiều các lĩnh vực ,cấp học mầm non đã bắt đầu đưa Công nghệ thông tin vào trong các hoạt động để giúp trẻ và gây hứng thú cho trẻ ,tuy nhiên vấn đề này vẫn còn khá mới mẻ và bỡ ngỡ đối với nhiều giáo viên . Mặc dù ai cùng hiểu được tầm quan trọng và những thiết thực do Công nghệ thông tin đem lại nhưng không phải ai cùng sử dụng thành thạo và làm chủ được những công nghệ đó .
Để đưa Công nghệ thông tin vào trong từng hoạt động của bài dạy hoặc xuyên suốt một tiết dạy có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải biết sử dụng một số kỹ năng cơ bản khi trình chiếu do đó yêu cầu đặt ra với bản thân tôi nói riêng và các giáo viên mầm non nói chung phải không ngừng học tập, trau dồi nâng cao trình độ cả về lý thuyết lẫn thực hành vi tính sao cho sử dụng thành thạo .Bên cạnh đó vẫn tìm tòi học hỏi thêm cách làm hiệu ứng trên máy và và biết chắt lọc, lựa chọn những nội dung hình ảnh có ý nghĩa đúng với chủ đề giáo dục , đúng với từng bài dạy mà cô muốn truyền thụ đến trẻ . Các bài học trên máy vi tính là những gợi ý tốt để giáo viên có thêm những ý tưởng sáng tạo mới nhằm tổ chức các hoạt động cho trẻ một cách sinh động cuốn hút và đạt hiệu quả cao hơn .
Không chỉ bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cô, mà cũng cần cho trẻ được làm quen ,tiếp cận và hướng dẫn trẻ sử dụng máy tính và học trên máy, điều đó cũng giúp cho giáo viên nắm bắt được sâu hơn tâm lý và sở thích của trẻ .
- Luyện kỹ năng thực hành :
Để thu hút sự chú ý, gây hứng thú của trẻ tôi đã sử dụng công nghệ thông tin vào một số bài dạy cụ thể sau :
Ví dụ : Dạy câu truyện : “ Quả bầu tiên ”
Chủ đề : Thế giới thực vật
Chủ đề nhánh : Một số loại cây .
Với bài dạy này tôi đã sử dụng phần mềm PoWerPoint để soạn giáo án điện tử xuyên suốt cả tiết dạy .
Để làm được giáo án điện tử trước hết tôi cần phải chuẩn bị đầy đủ những học liệu cần thiết như :
+ Tìm những cây hoa ,cây cảnh , cây lấy gỗ, cây ăn quả ở ngoài thật và trên mạng theo chủ đề và bài hát về chủ đề đó là bài “ Vườn cây của Ba” để quay video làm thành phim đưa vào vi tính
+ Quyển tranh truyện
+ Băng đĩa kịch bản câu chuyện
+ Nhạc bài hát : “ Bầu và Bí ”
+ Vẽ hình ảnh con chim én
Tất cả những hình ảnh trên đều được quay video, chụp ảnh đưa vào máy theo trình tự một tiết dạy
Trước khi vào tiết dạy tôi còn chuẩn bị máy tính xách tay đã cài đặt phần mềm PoWerPoint, máy chiếu, phông chiếu là những đồ dùng cần thiết khi giảng dạy .
Vào giờ học để thu hút sự chú ý của trẻ tôi gọi trẻ đến bên cô và hỏi :
– Các con thấy thời tiết hôm nay như thế nào ?
– Với thời tiết đẹp thế này các con có dự định đi đâu ? ( trẻ nêu ý định)
– Bây giờ cô có một đề nghị , cô con mình sẽ cùng đi chơi , cô sẽ đưa chúng mình đến thăm “ vườn cây của Ba” cô – các con cùng khám phá những điều thú vị trong khu vườn nhé!.
Sau đó tôi sẽ cho trẻ nhẹ nhàng ngồi trước máy vi tính xem hình ảnh về các loại cây trên máy chiếu và trò chuyện cùng cô . Tiếp đó trẻ cùng cô đàm thoại nội dung câu truyện trên máy chiếu và lắng nghe cô kể câu chuyện trên băng đĩa .
Với việc sử dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy , trẻ đặc biệt có hứng thú, trước khi vào bài học, khi nhìn thấy trong lớp có máy vi tính, có máy chiếu, tất cả trẻ đều ngạc nhiên đến sửng sốt, đến khi vào tiết học khi được xem trực tiếp các hình ảnh động âm thanh, bài hát trên màn hình trẻ vô cùng thích thú . Tiết học trôi qua một cách nhẹ nhàng đầy lôi cuốn trẻ từ đầu đến cuối . Đến khi hết tiết học trẻ còn nói “ học tiếp đi cô”
Với bài dạy này trẻ được quan sát kỹ các hình ảnh các loại cây một cách sống động và trung thực, trẻ được quan sát kỹ nội dung quyển tranh truyện trên máy chiếu thay vì quyển tranh truyện bé ở ngoài . Trẻ được xem và khắc sâu tính cách nhân vật cậu bé hiền lành tốt bụng, lão địa chủ tham lam độc ác qua cử chỉ, nét mặt của từng nhân vật, qua đó trẻ tập trung cao độ vào tiết học , hăng hái phát biểu xây dựng bài , giờ học sôi nổi .
Từ đó phát huy được tính tích cực , phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giờ học đạt kết quả từ 90-95%.
Ví dụ 2: Truyện “Chú Dê đen”
Chủ đề : Thế giới động vật
Chủ đề nhánh : Động vật sống trong rừng .
Với bài dạy này tôi chuẩn bị :
+ Hình ảnh một số động vật sống trong rừng như hổ, voi, sư tử…
+ Bài hát : vào rừng xanh
+ Băng đĩa kịch bản với câu chuyện .
Mở đầu bài dạy tôi cho trẻ đến bên cô cùng trò chuyện, sau đó cho trẻ đến thăm sở thú qua việc xem hình ảnh những con vật trên máy chiếu và đàm thoại cùng trẻ .
– Có những con vật gì ?
– Chúng đang làm gì ?
– Những con vật này sống ở đâu ?
Sau đó kể chuyện cho các cháu nghe .
Bài dạy : “Chú Dê đen” là một bài khó, bởi vì đây là bài thuộc chủ đề thế giới động vật – những con vật sống trong rừng nên việc tìm được những con vật sống trong rừng để giới thiệu với trẻ là rất khó . Thay vì trước đây tôi chỉ có thể sử dụng tranh ảnh hoặc những con vật bằng rối rẹt để giới thiệu với trẻ nên bài dạy không có tính thuyết phục, trẻ không hứng thú .Thì nay với công nghệ thông tin tôi có thể dễ dàng tìm được hình ảnh những con vật sống trong rừng ở trên mạng thật dễ dàng .
Từ việc tìm được hình ảnh đó trẻ rất hứng thú và ngạc nhiên khi được quan sát những bước đi, tư thế, hay đang rình mồi, tiếng kêu các con vật . Chính điều đó kích thích sự hứng thú trẻ vào tiết học, trẻ nào cũng chăm chú theo dõi. Qua tiết học trẻ không chỉ được làm quen với thế giới động vật phong phú, mà còn được học chữ viết , được phát triển ngôn ngữ tích cực, trẻ đựơc học một cách thoải mái, nhẹ nhàng , vui chơi là chính, nhưng trong chơi có học . Giờ học đạt kết quả cao .
3.Tăng cường cơ sở vật chất .
Muốn đưa công nghệ thông tin thành công cụ có hiêu quả để hỗ trợ các hoạt động giáo dục trẻ,thì trước hết phải có những thiết bị cần thiết để phục vụ như :
+ Máy vi tính đã nối mạng, đã cài đặt các phần mềm giáo dục trẻ ,phần mềm PoWerPoint .
+ Máy chiếu, phông chiếu,loa .
Bên cạnh đấy cần trang cấp thêm các đồ dùng dậy học phù hợp với từng chủ đề, từng bài học .
Để cơ sở vật chất đảm bảo các nội dung giáo dục, cần có sự hỗ trợ từ phía phòng giáo dục và đào tạo, sự phối kết hợp giữa nhà trường và các bậc phụ huynh đóng góp kinh phí để cung cấp cơ sở vật chất cho nhà trường .
4. Kiểm tra đánh giá :
Để nâng cao kiến thức và kỹ năng thực hành sử dụng công nghệ thông tin cho các giáo viên, cần có sự kiểm tra kết quả một cách thường xuyên từ Ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn . Cụ thể :
– Ban giám hiệu và chuyên môn đưa ra các bài kiểm tra cụ thể cho giáo viên thực hiện .
– Sau mỗi lần kiểm tra có sự đánh giá kết quả cụ thể trên từng giáo viên, để giáo viên nắm bắt những gì mình làm được cần phát huy, những gì chưa làm được cần cố gắng hơn nữa.
5 – Rút kinh nghiệm :
Qua mỗi lần kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện thực hành trên máy phải có sự nhận xét từ Ban giám hiệu và tổ chuyên môn. Giáo viên cần lắng nghe và tự rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân về lĩnh vực của mình đang làm để từ đó cố gắng nâng cao khả năng sử dụng công nghệ thông tin cho mình .
6-Biểu dương tuyên truyền :
Cần có sự biểu dương những cố gắng nỗ lực và những thành tích mà giáo viên đã làm được để cổ vũ , khích lệ các giáo viên phấn đấu hơn nữa . Bên cạnh đó cần có kế hoạch cụ thể những nội dung cần tuyên tuyền sâu rộng đến các bậc phụ huynh , đến nhân dân trong vùng , đến các ban ngành đoàn thể để họ hiểu được tầm quan trọng của công nghệ thông tin đối với ngành học, đối với giáo dục trẻ . Qua đó họ có hướng giáo dục trẻ phù hợp và có sự hỗ trợ cần thiết về vật chất để thuận lợi việc giảng dạy cho các giáo viên .
III- KẾT QUẢ
Trong quá trình thực hiện tiết truyện kể ở lớp mẫu giáo 5-6 tuổi , 100% các cháu rất thích nghe cô kể chuyện , 90-98% các cháu hăng hái phát biểu xây dựng bài , kể lại được chuyện và tham gia đóng kịch theo nội dung truyện
Tháng 3 năm 2009 tôi đã tham gia dạy tiết truyện “ Quả bầu tiên” đã được Ban giám hiệu, các bạn đồng nghiệp đánh giá cao.
Qua đây tôi thấy việc gây hứng thú cho trẻ khi kể chuyện là rất cần thiết. Để đạt được kết quả trên, mỗi giáo viên mầm non cần phải đầu tư cho tiết dạy luôn sáng tạo và có sự ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp giúp cho giờ dạy đạt kết quả cao.
1-Tiêu chí đánh giá:
Để đánh giá kết quả một cách chính xác, tôi dựa vào những tiêu chí sau :
– Sự chú ý nghe kể truyện diễn cảm của trẻ
– Khả năng đàm thoại theo nội dung truyện của trẻ
– Trẻ hiểu nội dung truyện, nắm được trình tự của truyện, kể diễn cảm được câu chuyện .
– Trẻ phân biệt được sự đúng, sai, thiện , ác, chăm chỉ, lười biếng và có tình cảm , thái độ phù hợp qua câu truyện mình học .
– Trẻ phát âm rõ ràng, nói năng mạch lạc.
3-So sánh với cùng kỳ năm trước:
So với năm học trước năm học 2007 – 2008 tôi dạy trẻ làm quen với văn học tiết truyện: “Quả bầu tiên”, chưa có ứng dụng công nghệ thông tin vào trong tiết dạy thì tỷ lệ trẻ hứng thú chú ý trong tiết học là thấp, trẻ không hào hứng, còn nói chuyện riêng trong lớp, không hăng hái phát biểu xây dựng bài. Do trong bài dạy tôi chỉ sử dụng tranh ảnh và rối dẹt nên không sinh động, chưa thu hút trẻ.
Nhưng trong năm học 2008 – 2009 tôi có sử dụng công nghệ thông tin đưa vào trong tiết học để giới thiệu bài hoặc soạn giáo án điện tử để dạy trẻ tôi nhận thấy trẻ rất thích hầu như cháu nào cũng chăm chú quan sát và lắng nghe cô giảng bài. Với những tiết dạy về những con vật sống dưới nước, hay động vật sống trong rừng việc tìm được những con vật thật đó là rất khó, nhưng khi sử dụng công nghệ thông tin tôi có thể dễ dàng tìm được trên mạng hoặc quay thành phim những con vật thật ở bên ngoài để dạy trẻ mà vẫn đảm bảo tính trung thực, sinh động của những con vật đó. Thay vì trước đây chỉ quan sát qua tranh ảnh và mô hình rối dẹt thì nay trẻ được quan sát trực tiếp , do vậy tỷ lệ trẻ tiếp thu bài, hiểu nội dung truyện và hứng thú trong tiết học là rất cao, đạt từ 90-98%
IV- BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Bộ môn “Làm quen với văn học” là bộ môn rất hay và hấp dẫn nếu giáo viên có sự đầu tư vào bài dạy, nhưng sẽ trở thành đơn điệu, khô khan nếu không có sự chuẩn bị chu đáo. Vì vậy muốn dạy tốt bộ môn giáo viên phải nắm được yêu cầu của bài dạy và những kỹ năng cần truyền đạt trong từng bài để vận dụng các phương pháp cho phù hợp.
Qua việc mạnh dạn vận dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết học, tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm sau:
1- Bài học chung:
– Giáo viên phải hiểu được tầm quan trọng của các bộ môn nói chung và môn học làm quen với văn học nói riêng.
– Nắm chắc phương pháp cho từng loại tiết và biết cách sử dụng linh hoạt áp dụng trong giờ học.
– Cô có sự ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các tiết học sao cho phù hợp không chỉ riêng môn làm quen với văn học.
– Giáo viên phải có sự đầu tư học hỏi cách soạn giáo án điện tử và sử dụng phần mềm trên máy một cách thành thạo.
– Lựa chọn những bài dạy phù hợp với chủ đề, phù hợp khả năng nhận thức của trẻ.
– Luôn cập nhật thông tin về cách chăm sóc – giáo dục trẻ để mở rộng hiểu biết cho mình.
– Biết cách lựa chọn tìm những nội dung, hình ảnh, âm thanh, mầu sắc ở trên mạng hoặc cảnh ở ngoài để phối hợp ghép các cảnh phù hợp với từng hoạt động trong bài dạy.
– Khi chưa ứng dụng công nghệ thông tin thì kết quả hạn chế trẻ tiếp thu bài chưa cao, không hứng thú học .
– Khi đã sử dụng công nghệ thông tin thì kết quả trẻ tiếp thu bài cao, trẻ thực sự yêu thích và hứng thú mỗi khi vào tiết học.
2- Bài học riêng:
– Trước mỗi tiết dạy tôi luôn soạn giáo án đầy đủ, chi tiết cho mỗi giờ học, học thuộc giáo án, có dự kiến tình huống nảy sinh trong giờ học để có ứng sử kịp thời và có tác phong linh hoạt nhẹ nhàng gần gũi trẻ.
– Muốn giảng dạy để các cháu đạt kết quả tốt cô phải thực sự yêu nghề mến trẻ luôn đầu tư tìm tòi suy nghĩ cách ứng dụng công nghệ thông tin trong bài học cho phù hợp và biết cách sử dụng linh hoạt đúng lúc đúng chỗ .
– Biết tích hợp các nội dung giáo dục trẻ trong giờ học và ở ngoài tiết học .
– Chú ý luyện giọng kể cho phù hợp với từng nhân vật của truyện .
– Dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, luôn quan tâm đến việc sử dụng ngữ điệu giọng và điệu bộ minh hoạ của trẻ, sửa sai kịp thời .
– Cần tìm tòi thêm những cách giảng dạy để lôi cuốn trẻ, tìm và vận dụng những nguyên vật liệu có sẵn để làm đồ dùng kết hợp cùng với công nghệ thông tin để giảng dạy có hiệu quả.
– Luôn có ý thức học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ sử dụng công nghệ thông tin, thường xuyên dự giờ thăm lớp các bạn đồng nghiệp, học hỏi tích luỹ kinh nghiệm để có sự sáng tạo trong giảng dạy.
– Thường xuyên nghiên cứu, tham khảo tài liệu trên sách, báo, ti vi, trên mạng.
– Không bằng lòng với những kết quả đạt được, luôn phấn đấu vươn lên để giảng dạy môn làm quen với văn học, đặc biệt là tiết truyện để đạt kết quả cao hơn nữa .
3- Bài học thành công :
– Bước đầu đã ứng dụng được công nghệ thông tin vào trong tiết học đưa công nghệ thông tin trở thành công cụ có hiệu quả để hỗ trợ tốt tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ .
– Giáo viên được làm quen tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin.
– Giáo viên có điều kiện được mở rộng , bổ sung thêm kiến thức về công nghệ thông tin
– Từ công nghệ thông tin, giáo viên có thêm những ý tưởng sáng tạo mới .
– Qua công nghệ thông tin giúp giáo viên nắm bắt sâu hơn tâm lý và sở thích của trẻ.
– Có thể tìm được những hình ảnh bài hát ,âm thanh phục vụ tiết dạy .
– Tạo được ở trẻ sự hứng thú học tập ,phát huy được tính chủ động tích cực của trẻ .
– Trẻ hiểu bài ,tiếp thu bài có hiệu quả .
– Giáo viên học được cách làm đồ dùng đồ chơi , cách lựu chọn hình ảnh để trang trínhóm lớp qua công nghệ thông tin.
– Giáo viên học được cách xử lý tính huống khi trẻ thực hiện đúng hoặc sai, hay khi trẻ có những ý tưởng bất ngờ sáng tạo
– Nhờ công nghệ thông tin, giáo viên có thể vận dụng để tổ chức cho trẻ hoạt động mở rộng ở các góc chơi, ứng dụng trong các giờ hoạt động ngoài trời, tạo môi trường học tập cho trẻ theo các chủ đề một cách phong phú và hấp dẫn .
4-Bài học chưa thành công :
– Trang thiết bị phục vụ cho việc sử dụng công nghệ thông tin còn thiếu chưa đáp ứng được
– Trình độ sử dụng máy của giáo viên còn nhiều hạn chế , chưa được nâng cao.
– Trong quá trình sử dụng máy còn lúng túng .
– Trong quá trình giảng dạy chưa biết cách đặt những câu hỏi mở kích thích trẻ tư duy với các vấn đề đặt ra
PHẦN III:
KẾT LUẬN
Sáng kiến này có tác dụng:
* Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giáo dục mầm non để dạy trẻ có tác dụng và ảnh rất lớn đến trẻ cụ thể:
– Góp phần phát triển nhân cách cho trẻ.
– Hình thành và rèn cho trẻ một số đức tính tốt như: Ham hiểu biết, luôn thính khám phá tìm tòi những điều mới lạ.
– Rèn các kỹ năng: Ghi nhớ, chú ý, quan sát, lắng nghe và phát triển tư duy lô gíc, phát triển ngôn ngữ, óc quan sát phán đoán cho trẻ.
– Trẻ đươc làm quen và biết cách thao tác trên máy.
– Qua bài học trẻ biết học tập những nhân vật hiền lành chăm chỉ biết tránh xa nhân vật tham lam, độc ác .
* Bên cạnh việc có tác dụng và ảnh hưởng đến trẻ thì công nghệ thông tin cũng có tác dụng và ảnh hưởng đến giáo viên.
– Mở rộng tầm hiểu biết và nâng cao kiến thức cho các cô.
– Cô học được cách làm việc cùng trẻ có hiệu quả
– Cô được làm quen với công nghệ thông tin hiện đại và đã, đang từng bước làm chủ được công nghệ thông tin đó.
– Qua công nghệ thông tin cô truyền thụ được đến trẻ tất cả những nội dung giáo dục không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hình ảnh minh hoạ, âm thanh, tiếng động một cách sống động và trung thực.
– Đưa công nghệ thông tin vào việc dạy và học có tác dụng giúp cho giáo viên giải quyết được những khó khăn về giáo cụ trực quan.